TỔ ĐÌNH TAM BỬU TỰ Ba Chúc - An giang
♠♠๑۩۞۩๑ -KỲ HƯƠNG TỰ- ๑۩۞۩๑♠♠
Trang này được thực hiện bởi các đồng đạo TỨ ÂN HIẾU NGHĨA - TIỀN GIANG

26 tháng 12, 2010

NĂM ÔNG THẺ CỦA BỬU SƠN KỲ HƯƠNG

2 nhận xét
Không phải ở Việt Nam phải đợi tới năm 1849 Đức Phật Thầy Tây An mới xuất hiện mở ếm, và cũng không phải đợi đến năm 1714 mới có Mạc Cửu ở Hà Tiên, mới có ếm đối với nhân tài trong nước, mà một số nhà phong thủy nổi tiếng như :
1) Cao Biền : thời nhà Đường Trung Quốc vừa là tướng, vừa là nhà phong thủy chuyên đi ếm khắp nơi.
2) Hoàng Phúc : là tướng giỏi đời Đường Trung Quốc, tiếp tục Cao Biền trấn ếm nước Nam để không thể nào có được những nhân tài xuất chúng.
3) Mạc Cửu : được vua Tàu nhà Thanh sai sang đất Việt giả khổ nhục kế để thực hiện mưu đồ.
4) Sư Chân Nhân (852 - 936) : phá ếm của Cao Biền.
5) Thiền sư Định Không : tu chùa Quỳnh Lâm, từng mở ếm của Cao Biền.
6) Sư Vạn Hạnh : người tâu lên vua Lê Đại Hành dời đô vào Thăng Long tránh những sự ếm đối của Tàu, và chọn nơi có long huyệt.
7) Tả Ao Nguyễn Đức Hiền : người làng Tả Ao, ngài lưu sách phong thủy nói rõ sự thấp cao cho người đời biết mà tránh ếm của người Tàu.
8) Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm : tiên đoán thần tài về sự thịnh suy nước Việt… nhất là mở cõi phương Nam.
9) Đức Bổn Sư Núi Tượng mở ếm tại Thủy Đài Sơn.
10) Ông đạo Lập mở ếm ở Bài Bài.

Đã cùng xuất hiện 05 cây thẻ của Phật Thầy Tây An cùng các đệ tử phá trấn ếm là việc thường đối với những bậc tu hành đã có thần thông như: Thiền sư Định Không, Sư Chân Nhân, Sư Vạn Hạnh… đều xuất hiện mở ếm của các nhà phong thủy Tàu với ý chính là “trấn ếm những vùng đất tốt ở Việt Nam” vì : “Địa linh sinh nhân kiệt” nên 5 Ông Thẻ xuất hiện vào thời Đức Phật Thầy Tây An cũng không ra ngoài lẽ đó.

Vào năm 1851, Phật Thầy Tây An chỉ giáo cho Trần Văn Thành (Đức Cố Quản) và số tùy tùng lên núi tìm gỗ “lào táo” là loại gỗ chắc để làm trụ cột, gọi là “cây thẻ”; khi tìm được gỗ, cho vuốt búp sen và khắc bốn chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”.

Cây thẻ bằng gỗ “lào táo” trấn tại vùng Thất Sơn. 

6 tháng 11, 2010

Kim Cổ Kỳ Quan - Audio

0 nhận xét
"KIM CỔ KỲ QUAN”
""Nguyễn Văn Thới tức Ông Ba Thới""
(Nguyễn Thiên Thụ chú giải)

Tải về audio về máy: 


Tựa  
: File 1A
. Kim Cổ
: File 1A đến 4B
Giác mê
: File 5A-5B
Thừa nhàn
: File 6A-10B


Kim Co Ky Quan 1 A

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 1 B

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 2 A

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 2 B

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 3 A

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 3 B

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 4 A

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 4 B

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 5 A

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 5 B

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 6 A

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 6 B

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 7 A

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 7 B

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 8 A

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 8 B

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 9 A

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 9 B

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 10 A

Right Click Download
Kim Co Ky Quan 10 B

Right Click Download
  




4 tháng 10, 2010

HÒA NHẠC TANG LỄ

0 nhận xét


Hòa nhạc tang lễ tế vong linh hàng Thần vị (Địa Thần, Nhơn Thần, Thiên Thần) bao gồm theo tuần tự như sau: hòa Bắc, hòa Nam, hòa Văn Võ.
  1. Hòa Bắc gồm có: bài Hạ Giang cho hàng Địa Thần, Nhơn Thần, Thiên Thần.
  2. Hòa Nam gồm có: các bài Nam Xuân, Nam Ai, qua Nam Ai lớp mái.
  3. Hòa Văn Võ gồm có: Văn Võ nhạc gồm nhiều bài tiết tấu khác nhau được trích trong bài bản chèo Thuyền Bát Nhã của Tôn Giáo Cao Đài.
Trước năm 1975, việc "Hòa Nhạc Tế Vong Linh hàng Thần Vị" được dành cho:
  • Hàng phẩm Lễ Sanh, hay các đối phẩm tương đương (nếu tang lễ tổ chức tại tư gia), thông thường tang lễ các hàng phẩm nầy (Thiên Thần) đều được di quan vào khách đình có tổ chức nghi thức Lễ Chèo Thuyền.
  • Thân bằng quyến thuộc "TỨ ÂN HIẾU NGHĨA" của các nhân viên trực thuộc Cơ Quan Chánh Thống: Nhạc, Lễ, Đồng Nhi, Ban Thuyền Bát Nhã.
Sau những năm 1975:
  • Những vị hữu công không phân biệt phẩm vị Đạo hay Đời, hòa đờn tang lễ được thực hiện để nói lên sự tương giao giữa Đạo và Đời.
   Tải về: 01-HoaBac.mp3
   Tải về: 02-HoaNam.mp3
   Tải về: 03-HoaVanVo1.mp3
   Tải về: 04-HoaVanVo2.mp3
   Tải về: 05-HoaVanVo3.mp3

Chuông Trống Mõ và Chuông Trống Bát Nhã P.3

0 nhận xét
Mõ có hai loại: Mõ có hình bầu dục và mõ có hình điếu. Tất cả đều được tạc theo hình con cá.

a. Mõ hình hình bầu dục: Mõ nầy dùng để tụng kinh, điều khiển buổi lễ khi đông người tụng được nhịp nhàng.

b. Mõ hình điếu: Mõ nầy treo ở nhà trù dùng để báo hiệu khi thọ trai hay chấp tác. Ngoài ra, cũng có một loại mõ rất nhỏ dùng để chư Tăng đi kinh hành gọi là nhiễu Phật. Tiếng mõ vừa giữ cho buổi lễ được trang nghiêm lại vừa giữ cho tâm hồn khỏi tán loạn trong khi hành lễ. Bởi thế, người đánh mõ gọi là Duyệt chúng, tên nầy gọi là làm đẹp lòng mọi người trong lúc cùng tụng kinh với nhau. Đánh mõ phải học hẳn hoi, đúng điệu và đúng cú pháp của nó.

4. Khánh: Tiếng Phạn là Kiền chùy dịch là chuông hay khánh. Theo lão Hòa thượng Tục Sư có thuật chuyện vua Tống thái Tổ cho rằng: Tiếng trống hay làm giật mình người ngủ, nên thay vì dùng trống, Tống thái Tổ chế ra thiết khánh. Ngày nay trong các tự viện khánh làm bằng đồng chừng bằng cái đĩa lớn, treo trong một cái giá gỗ, thường dùng để báo hiệu trong phạm vi nhỏ, chẳng hạn như để báo thọ trai hay khi thỉnh một vị tăng từ trong liêu ra pháp đường, hay đón rước một vị đại sư hay danh tăng đến tự viện, nghi lễ nầy đi trước là khai lễ gồm nhang, đèn, hoa, quả, kế theo là một vị cầm khánh treo trong giá, vừa đi vừa đánh khánh rồi tiếp theo là vị tăng được rước, có thể có lộng hầu và theo sau mới đến những vị tăng khác tùy theo phẩm trật xếp thành thứ tự.

Những vị tăng nhập đại định, muốn báo cho vị ấy xuất định, người ta cũng dùng tiếng khánh để cảnh tĩnh.

5. Bản: Là một tấm gỗ dầy chừng 2 phân, dài chừng 4 hay 5 tấc, cao chừng 3 tấc, thường được treo trong tự viện, được gõ 3 lần trong ngày: bình minh, hoàng hôn và trước khi đi ngủ. Người ta thường thấy những câu sau đây khắc trên bản:

Hãy nghe đây chư tăng! Hãy tinh tiến trong việc tu tập! Thời gian bay qua nhanh như mũi tên; nó chẳng chờ ai đâu !

6. Nghi thức chuông mõ khi tụng kinh.

Hai bên bàn thờ Phật, chuông để bên tay trái đức Phật, mõ bên tay phải.

Trước khi bắt đầu thời kinh, người đánh chuông gia trì thỉnh 6 tiếng, để báo cho mọi người biết, chánh điện đã lên nhang đèn xong, mời mọi người giữ 6 căn thanh tịnh vào lễ Phật, tụng kinh.

Khi chủ lễ vào vị trí, bắt đầu niệm hương, thỉnh 3 tiếng chuông, sau đó thấy chủ lễ xá thì thỉnh 1 tiếng chuông, khi lạy thì thỉnh 1 tiếng chuông, lúc trán chạm xuống nền thì dùng dùi chuông gõ vào vành chuông nhưng giữ lại trên vành chuông, không cho âm thanh ngân vang, gọi là dập.

Sau khi Chủ lễ niệm bài Quán tưởng và Ðãnh lễ, hoặc trước bài Tán Lư Hương: Lư hương xạ nhiệt ... hoặc Tán Dương Chi: Dương Chi tịnh thủy ... hoặc Cử Tán: Chiên đàn hải ngạn ... thì khai chuông mõ như sau : Chuông thỉnh trước ba tiếng O O O (ba tiếng rời nhau)

Mõ gõ tiếp theo chuông bảy tiếng: – – – – – – – (bốn tiếng rời, hai tiếng liền nhau và một tiếng rời ra sau cùng)

Rồi chuông mõ hòa với nhau như sau O – O – O – – – – O (chuông thỉnh trước, mõ gõ sau, sau 3 tiếng thì chuông ngừng, mõ gõ tiếp theo tiếng thứ tư, năm sáu gõ liền nhau, tiếng thứ bảy của mõ, thì chuông thỉnh một lượt với tiếng mõ.

Trong mỗi bài kinh, kệ, chú mỗi một tiếng, mõ phải gõ một cái, chú luôn luôn đọc nhanh nên mõ phải gõ nhanh. Bất cứ bài nào cũng vậy mõ bắt đầu gõ vào tiếng thứ 2, thứ 4 và những tiếng tiếp theo, và khi còn 5 tiếng chấm dứt thì mõ gõ rất chậm, rồi gõ liền 2 cái ở tiếng áp chót và một cái ở tiếng chót.

Còn chuông thì trong bài dài, thỉnh thoảng thỉnh một tiếng chuông, những bài chú niệm ba lần, bảy lần, mười lần, hai mươi mốt lần, cứ mỗi lần hết là thỉnh một tiếng chuông, còn niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát ba lần, mười lần hay nhiều hơn, sau ba lần hay mười lần ấy mới thỉnh chuông (thường chú ý vào vị chủ lễ, khi thấy vị chủ lễ cuối đầu xá, đó là chấm dứt niệm chú hay chuyển sang niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát khác). Cuối mỗi bài kinh, kệ, chú thỉnh chuông vào tiếng thứ 5, thứ 3 và tiếng sau cùng.

Ví dụ :

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
........

Nguyện giải Như O Lai chơn O thật nghĩa O

Khi thời kinh chấm dứt thì thỉnh một hồi chuông và 3 tiếng rời ra sau cùng. Có nghĩa là giữ cho ba nghệp thân khẩu ý luôn được thanh tịnh.

Một cách khác, nghi thức khai chuông mõ và ý nghĩa như sau.

- Trước đánh ba tiếng (tiên khởi tam),
- Kế nhịp bảy (thứ lôi thất),
- Tiếp đánh ba (tịnh đả tam),
- Giữa đánh mười (trung đả thập)
- Sau cùng dứt bốn (hậu diệt tứ).

* Trước đánh ba tiếng: Nghĩa là chúng sanh do ba nghiệp thân khẩu ý tạo tác mọi điều ác, sau sẽ đọa vào trong ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Nhưng cũng có nghĩa là cố trừ ba độc: tham, sân và si để vượt lên ba giải thoát để chứng đắc ba đức: Pháp thân, Bát nhã thân và Giải thoát thân. (Phần nầy giảng lược đi nên không mấy ai biết đến.)

* Kế tiếp nhịp bảy tiếng: Đây là tiêu biểu cho thất chi tội. Về thân thì có ba: Sát, đạo và dâm. Về khẩu thì có bốn: Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu. Sau khi đã đoạn trừ được bảy tội nêu trên liền chứng được thất giác chi: Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, định và niệm.

* Tiếp đánh ba tiếng: Là phát nguyện tu tam học tức là giới, định và huệ để quyết chứng cho được ba thừa: Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát.

Giữa đánh mười tiếng: Đó là tiêu trừ mười điều ác gồm thất chi tội cọng thêm của ý có ba là mười. Từ đó, chứng nhập mười thân gồm: Bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực thân, trang nghiêm thân, oai thệ thân, ý sanh thân, phước thân, pháp thân và trí huệ thân. (Phần nầy, sau nầy giản lược đi, không mấy ai dùng đến và cũng không mấy ai biết để ý đến.)

* Sau cùng dứt bốn: Tức là để tiêu trừ bốn tướng: Sanh, lão, bệnh và tử để chuyển thành bốn trí:

+ Thành sở tác trí: Tiền ngũ thức (nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt và thân),

+ Diệu quan sát trí: Đệ lục ý thức,

+ Bình đẳng tánh trí: Đệ thất Mạc na thức,

+ Đại viên cảnh trí: Đệ bát A lại da thức.

7. Nghi thức sử dụng chuông công phu

Người thỉnh chuông khai chuông công phu theo bài kệ sau :"

Hồng chung sơ khấu, bảo kệ cao âm
Thượng triệt thiên đường, hạ thông địa phủ
U Minh giáo chủ cứu khổ bổn tôn
Cứu bạt minh đồ Ðịa Tạng Vương Bồ Tát.
"Án dà ra đế dạ ta bà ha"

Tiếp theo nhập bảy tiếng chuông nhỏ, rồi thỉnh ba tiếng lớn và chậm rãi:

o o o o o o o O O O (vô tam)

Theo đó cứ đọc hai câu kệ lại thỉnh một tiếng chuông như sau:

Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới, 
Thiết vi u ám tất giai văn. O (thỉnh tiếng chuông thứ nhất)
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông, 
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác. O (thỉnh tiếng chuông thứ hai)
Văn chung thanh phiền não khinh
Trí huệ trưởng, Bồ Ðề sanh. O (thỉnh tiếng chuông thứ ba)
Ly địa ngục, xuất hỏa khanh
Nguyện thành Phật Ðộ chúng sanh. O (thỉnh tiếng chuông thứ t ư)

Tiếp theo đó là thỉnh ba hồi chuông, sau đó người thỉnh chuông sẽ thỉnh từng tiếng sau mỗi danh hiệu Phật, Bồ Tát, hay sau mỗi câu chú.

Cuối cùng thỉnh một hồi chuông và bốn tiếng để báo chấm dứt thời công phu.

O O O O O O O O o o o o o O O O O (dứt tứ)

8. Chuông trống Bát Nhã. Chuông trống Bát Nhã là danh từ dùng để chỉ chuông to, trống lớn, thường chùa có thể xây lầu chuông, gác trống và treo "tả chung, hữu cổ". Thật ra cụm từ Chuông trống Bát nhã là để chỉ cách đánh chuông và trống theo một bài kệ "Bát Nhã Hội". Là một nghi thức hành lễ Phật giáo Trung Hoa truyền sang Việt Nam, có lẽ xuất phát từ Không Tông, do nghi thức rất trang trọng nên dần dần chùa chiền các tông phái khác áp dụng theo. Có nhiều cách đánh chuông trống Bát Nhã, chúng tôi ghi ra một trong những cách đánh ấy:

a. Phần khai chuông trống

- Ba hồi chuông:

Trước khi thỉnh chuông, người đánh chuông nhập bảy tiếng chuông nhỏ, rồi thỉnh 3 tiếng thật lớn, thật chậm rãi (1) o o o o o o o O O O (vô tam)

Tiếp theo là thỉnh ba hồi chuông

Lần 1: O O O O O O O O O O O O o o o o o o o o o (lúc đầu chậm lúc sau mau dần và nhẹ tay)

Lần 2: Giống như lần 1

Lần 3: Giống như lần 1, tuy nhiên khi chấm dứt, thỉnh thêm 4 tiếng thật lớn và rời nhau: O O O O (dứt tứ).

- Ba hồi trống:

Trước khi đánh trống nhập bảy tiếng trống nhỏ, rồi đánh ba tiếng thật lớn, thật chậm rãi: x x x x x x x X X X (2)

Tiếp theo sau là đánh ba hồi trống: Ðánh trống giống như thỉnh chuông trong ba lần 1, 2 và 3 nói ở phần trên.

b. Phần nhập chuông trống (Chuông và trống đánh cùng một lúc):

Khi dứt tiếng trống lần 3, người đánh trống vừa nhẩm đọc bài kệ Bát Nhã, mỗi tiếng đánh một tiếng trống, nhưng hai tiếng sau đánh liền nhau. Người thỉnh chuông, sau mỗi câu kệ thỉnh một tiếng chuông (sau hai tiếng trống đắnh liền nhau, thỉnh một tiếng chuông)

Lần 1:

Bát Nhã hội X XX O
Bát Nhã hội X XX O
Bát Nhã hội X XX O
Thỉnh Phật Thựợng Ðường X X XX O
Ðại chúng đồng văn X X XX O
Bát nhã âm X XX O
Phổ nguyện pháp giới X X XX O
Ðẳng hữu tình X XX O
Nhập Bát Nhã X XX O
Ba la mật môn X X XX O
Ba la mật môn X X XX O
Ba la mật môn X X XX O

Lần 2: Ðánh giống như lần 1

Lần 3: Ðánh giống như lần 1, tuy nhiên, khi hết câu cuối bài kệ rồi, đánh tiếp theo phần kết thúc:

c. Phần chuông trống kết thúc (3) :

X O X O X O X O X O X O x o x o x o x o x o và sau cùng đánh bốn tiếng trống và chuông chấm dứt (dứt tứ) X O X O X O XX OO (đánh kép)

d. Phần kết thúc:

Lúc khởi đầu, chuông trống Bát Nhã đánh ba hồi, nhưng khi kết thúc buổi lễ cũng như thời kinh chuông trống Bát Nhã chỉ đánh một hồi mà thôi.

d. Một cách đánh chuông trống Bát Nhã khác:

- Mới đầu đánh nhập 2 tiếng: biểu thị NHỊ ĐẾ dung thông (pháp thế gian và pháp xuất thế gian dung thông, không ngăn ngại). 
- 3 tiếng tiếp (mỗi lần 1 tiếng): tượng trưng cho sự khấu đầu quy y TAM BẢO, nguyện dứt trừ tam độc: tham, sân si. 
- 7 tiếng sau đó (vì tiếng thứ 7 và 8 đánh gấp, tính gộp thành 1 tiếng), tượng trưng cho BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT THƯỢNG ĐƯỜNG, tức tác pháp thỉnh Phật thăng toà. 
- Nếu 7 tiếng này tính thành 8 tiếng: tượng trưng cho câu "MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA" hoặc BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT LAI CHỨNG MINH, tức tác pháp thỉnh Phật chứng minh. 
- Cuối cùng đánh dứt 4 tiếng: tượng trưng cho chứng nhập TỨ ĐẾ. 

e. Ghi chú:

( 1 ) Dù thỉnh chuông hay đánh trống, luôn luôn nhớ câu: "vô tam, dứt tứ” đây là trường hợp "vô tam" của chuông.

( 2 ) Ðây cũng là trường hợp "vô tam" của trống.

( 3 ) Nếu không thuộc bài kệ đánh trống, người tập đánh trống có thể nhớ các lần đánh trống theo cách đếm sau :

- Lần thứ nhất đánh ba tiếng trống
- Lần thứ hai đánh ba tiếng trống
- Lần thứ ba đánh ba tiếng trống
- Lần thứ tư đánh bốn tiếng trống
- Lần thứ năm đánh bốn tiếng trống
- Lần thứ sáu đánh ba tiếng trống
- Lần thứ bảy đánh bốn tiếng trống
- Lần thứ tám đánh ba tiếng trống
- Lần thứ chín đánh ba tiếng trống
- Lần thứ mười đánh bốn tiếng trống
- Lần thứ mười một đánh bốn tiếng trống
- Lần thứ mười hai đánh bốn tiếng trống

Có lẽ khởi đầu chuông trống Bát Nhã chính thức dùng trong nghi lễ lớn của Phật Giáo, hoặc để thỉnh Phật chứng minh cho lễ kỹ niệm lớn, hoặc lễ giới đàn, hay Ðại sư đăng đàn thuyết pháp, bởi vì trong bài kệ có câu "Thỉnh Phật thượng đường", ngày nay người ta còn dùng để đón rước chư Tăng. Dẫu cho là đón rước Ðại Sư hay Danh Tăng đến viếng chùa, có lạm dụng chăng?

III. Kết luận: Người Phật tử tưởng nên biết về cách bài trí, về nghi thức chuông mõ, chuông trống Bát nhã, để sử dụng khi tụng kinh ở chùa hoặc ở nhà. Có khi cần thiết để giải thích cho người khác được biết về ý nghĩa cho tường tận.