TỔ ĐÌNH TAM BỬU TỰ Ba Chúc - An giang
♠♠๑۩۞۩๑ -KỲ HƯƠNG TỰ- ๑۩۞۩๑♠♠
Trang này được thực hiện bởi các đồng đạo TỨ ÂN HIẾU NGHĨA - TIỀN GIANG

16 tháng 4, 2013

Đi tìm sự thật về truyền thuyết Mộ Bà – Công chúa Ngọc Hân (tiếp theo và hết)

0 nhận xét
Theo ông Trần Hữu Thành, công chúa Ngọc Hân và 2 người con đào thoát khỏi cuộc tru di của Gia Long là nhờ mưu kế của La Sơn Phu Tử. Theo kế đó thì Ngô Văn Sở đã đem con cháu mình chết thay cho con vua Quang Trung... Để ẩn tích, tránh tai mắt của vua Gia Long, Nguyễn Quang Mục (lấy tên Đoàn Minh Huyên) đã khoác áo nhà sư lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương để mưu đồ tập hợp nhân lực khôi phục lại cơ đồ. Ông Trần Hữu Thành chiết tự: Kỳ Hương đồng nghĩa với Hồ Thơm. Còn Bửu Sơn là Tây Sơn (?!). Bởi vậy, Bửu Sơn Kỳ Hương không thờ tượng mà chỉ thờ tấm vải màu đỏ không chữ tượng trưng cho lá cờ Tây Sơn… ***Ông Ba Thới là ai?*** Chứng cứ mà ông Thành đưa ra là dựa vào một quyển sách của cư sĩ Sripolieu có tựa là "Thân thế Phật thầy Tây An và Ngọc Hân Công chúa qua Kim cổ Kỳ quan" của tác giả cư sĩ Sripolieu. Chúng tôi chưa tìm được lai lịch của vị cư sĩ này. Nhiều người cho rằng cư sĩ Sripolieu là người dân tộc thiểu số, cư trú ở Bạc Liêu từ trước năm 1975. Không ai biết cụ thể ông sinh sống, tồn tại ở địa chỉ nào và bây giờ ở đâu. Quyển sách "Thân thế Phật thầy Tây An và Ngọc Hân Công chúa qua Kim cổ Kỳ quan" được ghi là "Viết xong ngày Mậu Tý, tháng Canh Tý, mùa đông năm Bính Tý", tức ngày 8/11/1966. Sách thuộc loại tự đánh máy, không có giấy phép phát hành của chế độ VNCH, được photo thành nhiều bản rồi trao tay nhau từ trước năm 1975. Từ tựa sách, cho thấy Sripolieu nêu giả thuyết trên dựa vào một quyển sách khác có tên gọi là "Kim cổ Kỳ quan", tác giả là ông Ba Thới. Trong quyển "Thân thế Phật thầy Tây An và Ngọc Hân Công chúa qua Kim cổ Kỳ quan", tác giả Sripolieu cho rằng, ông Ba Thới đã ẩn ý tiết lộ tông tích Phật thầy Tây An trong quyển "Kim cổ Kỳ quan". Ông Ba Thới có tên là Nguyễn Văn Thới đã qua đời từ năm 1925. Ông sinh năm 1866 ở Cao Lãnh, Đồng Tháp, giỏi chữ Nho. Thuở còn trẻ, ông sinh sống bằng nghề "lái rỗi", tức là nghề con buôn thu mua nông, thủy sản dạo. Gặp món gì mua món ấy, mua món nào bán món ấy. Trong một chuyến buôn về vùng Cái Dầu, An Giang, ông gặp Trần Văn Nhu - con trai Quản Cơ Trần Văn Thành. Thời điểm đó, cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bãi Thưa (còn gọi là Bảy Thưa) đã bị Pháp đàn áp, dập tắt. Tuy vậy, ông Nhu vẫn ngấm ngầm tập họp nghĩa sĩ chuẩn bị báo thù cha, phục thù dân tộc, kháng Pháp. Ông Nhu vẫn theo phương pháp của cha dùng lý thuyết tâm linh của Bửu Sơn Kỳ Hương quy tụ nghĩa sĩ. Ông Ba Thới ngộ được chí lớn của ông Trần Văn Nhu nên năm 1905 đã dời cả gia đình về Láng Linh sinh sống. Ông trở thành một quân sư của lãnh tụ kháng chiến Trần Văn Nhu. Ông Nhu dùng chùa Bửu Hương tự còn gọi là chùa Nhà Láng, tức dinh Đức Cố Quản làm nơi họp bàn việc kín. Ngày nay, địa chỉ đó là đền thờ đức cố quản Trần Văn Thành. Mưu sự chưa thành thì năm 1912 mật thám Pháp biết tin. Trong một lần họp kín, nghĩa sĩ đang họp tại Bửu Hương tự thì quân Pháp bất ngờ bao vây. Lãnh tụ Trần Văn Nhu, ông Ba Thới và một số nghĩa sĩ trốn thoát. Pháp bắt được 83 người. Chúng mở phiên tòa kết án giam và đày Côn Đảo 56 người, đồng thời phát lệnh truy nã ông Trần Văn Nhu và ông Ba Thới. Cả hai người thất lạc nhau. Trước tin Pháp cầm tù nghĩa sĩ, trong trạng thái bất lực, ông Ba Thới phẫn uất dùng dao cạo tự cắt cổ mình quyên sinh. Người nhà phát hiện kịp thời đưa ông đi bệnh viện cấp cứu. Do vết cắt đứt gần hết cổ họng, mất máu nhiều, ông mê man bất tỉnh. Khi tỉnh lại, ông cương quyết bứt tháo tất cả những bông băng và đòi về nhà. Ông ra dấu cho người thân rằng: Không sử dụng bất cứ thứ gì của Tây. Người nhà đành đem ông về nhà nằm chờ chết. Điều lạ là vết thương của ông dần hồi phục. Tuy cuống họng đã lành nhưng cổ họng vẫn còn hở, nên cơm ăn vẫn lọt ra ngoài. Trong điều kiện như vậy, ông vẫn tranh thủ sáng tác một số tác phẩm truyền bá tư tưởng "tu lành" và yêu dân tộc. 13 năm sau ông mới qua đời vì chứng bệnh khác. Lúc mưu sự kháng chiến chưa bị lộ, ông có sáng tác một số tác phẩm như: “Thiên tự”, “Cổ vãng kim lai”, “Vân Tiên”… bằng lối thơ thất bát (luân phiên 1 câu 7 từ, 1 câu 8 từ có âm điệu gần giống thơ lục bát). Trong quãng thời gian mang vết cắt ở cổ, ông vẫn sáng tác các tập: “Ngồi buồn”, “Kiểng - Tiên”, “Kim cổ Kỳ quan”, “Cáo thị”, “Tứ đại”, và “Thừa nhàn”. “Kim cổ Kỳ quan” (Những hào quang kỳ lạ từ xưa đến nay) có nội dung ca ngợi lối hành tu theo phái Bửu Sơn Kỳ Hương của Đức Phật thầy Tây An và tiên tri vận mệnh nước nhà (trong bối cảnh thực dân Pháp đô hộ) sẽ độc lập, tự chủ như một cường quốc. Ông dùng hơi hướng tâm linh đưa vào tác phẩm văn học có tính chất sử liệu để tuyên truyền, khơi gợi lòng yêu nước của quần chúng. Trong “Kim cổ Kỳ quan” ông đã ví mối đạo Bửu Sơn Kỳ Hương tương ứng với phong trào áo vải cờ đào của Vua Quang Trung gầy dựng cơ nghiệp Tây Sơn. Những trước tác của ông đều được viết bằng chữ Nôm nhưng được nhiều người truyền tụng như kinh kệ. Chúng tôi đã gặp con cháu nhiều đời của ông Ba Thới. Không ai còn lưu giữ được bản chính của ông bởi một sự cố. Vào những năm kháng Pháp, các tác phẩm của ông Ba Thới hoặc những gì liên quan đến tôn giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa được xem là tài liệu chống chế độ bảo hộ. Sau khi ông qua đời, con cháu cất giấu kỹ trong nhà. Khoảng thập niên 50 thế kỷ XX, một cháu nội của ông Ba Thới là kẻ nghiện rượu, lười biếng. Vì thiếu tiền uống rượu, đã đem cái rương gia bảo của gia đình đi cầm cố cho một người bạn. Thấy chiếc rương cổ, người bạn đồng ý cầm. Khi kẻ nát rượu đi về, người cầm mở rương ra trông thấy những tập thơ. Vốn là một người có học chữ Nôm, ông ta lấy ra đọc rồi thích thú nghiền ngẫm. Một hôm, mưa gió kéo sập ngôi nhà người cầm rương. Nước thấm ướt và xóa mờ rất nhiều trang. Tiếc xót những thi phẩm tôn giáo hay, người cầm rương viết lại. Đến những đoạn chữ nhòe, ông ta chấm lửng. Chép xong, ông ta truyền tay cho bạn bè cùng đọc. Người đọc thấy hay chép tay lại làm của để dành. Những trước tác của ông Ba Thới cứ truyền tay kiểu như thế nên tam sao thất bổn rất nhiều. Khi đến tay cư sĩ Sripolieu thì tác phẩm không còn nguyên nghĩa gốc. Thế nhưng căn cứ vào đó, Sripolieu đã phỏng đoán Đức Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên có tên thật là Nguyễn Quang Mục - con Vua Quang Trung và thân mẫu là Như Ý Võ Hoàng hậu tức Công chúa Ngọc Hân, là "Bà" ở ngôi mộ Cái Nai. ở núi Sam, Châu Đốc. ***Một truyền thuyết lịch sử*** Trong cuốn "Thân thế Phật thầy Tây An và Ngọc Hân Công chúa qua Kim cổ Kỳ quan". Sripolieu cho rằng, Đức Phật thầy Tây An dùng tên Đoàn Minh Huyên để che giấu tông tích của mình đối với tai mắt nhà Nguyễn. Thông tin đó cứ lan truyền từ mấy chục năm nay cho đến khi lương y Trần Hữu Thành có được bản viết tay "Thân thế Phật thầy Tây An và Ngọc Hân Công chúa qua Kim cổ Kỳ quan". Trong phần lời nói đầu, Sripolieu thừa nhận: "Chúng tôi nghiên cứu và giải thích theo bản in bộ Kim cổ Kỳ quan, xuất bản năm 1957 - Giấy phép số 423 -TTT/PKD Sài Gòn, do ông Trần Quang Lâm ở Láng Linh sao chép lại và dịch ra Quốc ngữ vào năm 1947 từ bản chính quyển “Của xưa để lại". Bản chính quyển "Của xưa để lại" do một người khuyết danh chép tay. Căn cứ vào tiểu sử Đức Phật thầy Tây An cho thấy địa chỉ mộ Bà phù hợp với nơi sinh. Điều đó có thể đoán "Bà" trong ngôi mộ là mẫu thân của Đức Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên. Đoàn Minh Huyên sinh vào ngày 14/11/1807 và viên tịch vào ngày 10/9/1856. Trong khi đó, Vua Quang Trung Nguyễn Huệ mất vào năm 1792. Căn cứ vào đó cho thấy, Đoàn Minh Huyên chào đời sau khi Vua Quang Trung Nguyễn Huệ mất đến 15 năm. Trong chính sử cũng không thấy nhắc đến người con nào của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ có tên là Nguyễn Quang Mục. Theo chính sử, Vua Quang Trung Nguyễn Huệ và Công chúa Ngọc Hân chỉ có 2 người con là Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Thị Ngọc. Giả sử, Đoàn Minh Huyên thay tên, đổi tuổi để tránh tai mắt nhà Nguyễn thì 12 đồ đệ thân cận nhất của ngài phải biết. Trong khi đó, ông Ba Thới chào đời sau khi Phật thầy Đoàn Minh Huyên viên tịch đến 10 năm (Phật thầy Tây An sinh năm 1807 - viên tịch năm 1856). Chúng tôi đã trở lại mộ Bà một lần nữa để tìm hiểu về tấm bài vị "Hoàng Lê đường -Cung thỉnh - Hoàng Phủ chi - Lê Phủ vị". Lần trở lại này, cô Ba thủ từ cởi mở hơn. Bà cho biết, thời Pháp, ở địa phương có một ông quan phủ tên Bỉnh hồi hưu về địa phương. Tuy giàu nhưng ông sống một mình không vợ con và đã hiến tặng rất nhiều đất cho phủ thờ mộ Bà. Khi ông qua đời, một người cháu họ của ông tên là Ba Chỉ đem gửi bài vị cho chùa hương khói. Có thể ông phủ Bỉnh có họ Lê. Bây giờ con cháu ông đã tứ tán không ai biết cụ thể bài vị đó như thế nào. Cách nay vài năm, con cháu dòng hoàng tộc họ Lê ở Quảng Nam, nghe tin mộ Bà Cái Nai là mộ Công chúa Ngọc Hân đã lặn lội tìm đến tận nơi xem xét nghiên cứu. Sau đó, có lẽ nhận ra điều ngộ nhận đã lẳng lặng bỏ đi. Qua nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm về các giáo phái tín ngưỡng ở vùng Thất Sơn huyền bí, chúng tôi nhận ra rằng các giáo chủ khai đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa đều có chung lòng căm thù ngoại xâm. Họ đã dùng tín ngưỡng, tâm linh để thu phục nhân tâm, khơi gợi lòng yêu nước quần chúng để mưu đồ kháng chiến. Quản cơ Trần Văn Thành cũng sử dụng huyền thoại 5 "ông thẻ" để cắm mốc xây dựng căn cứ địa. Những lãnh tụ khởi nghĩa kháng Pháp như Phan Xích Long, Đạo Tưởng… đều tự xưng mình là "Vua Hàm Nghi tái sanh". Những pháp sư thời nay ở vùng Thất Sơn mỗi khi lên đồng nhập xác cũng thường xưng danh là Quan Công, Tề Thiên hoặc Cử Đa. Không có chứng cứ khoa học biện chứng nào chứng minh mộ Bà ở An Giang là mộ của Công chúa Ngọc Hân cũng như Đức Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên là con trai Vua Quang Trung. Tất cả điều đó chỉ là lời đồn mang tính huyền hoặc. Lịch sử không thể là thứ dùng tâm linh để phán đoán. Hy vọng những tin đồn thiếu cơ sở khoa học đó không còn lý do tồn tại nữa. (Ảnh: Mộ Đức Phật thầy Tây An - Đoàn Minh Huyên tại núi Sam, Châu Đốc).

14 tháng 4, 2013

Đi tìm sự thật về truyền thuyết mộ Bà – Công chúa Ngọc Hân

0 nhận xét

Ở vùng núi Thất Sơn bấy lâu nay, những tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương tin rằng, Công chúa Ngọc Hân - Vợ Vua Quang Trung đã đào thoát khỏi cuộc trả thù khủng khiếp của Vua Gia Long, lẩn trốn về phương Nam sinh sống cho đến cuối đời. Hiện ở ấp An Bình, xã Hội An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang vẫn còn di tích ngôi mộ Công chúa Ngọc Hân. Nếu thông tin này đúng, chắc chắn các nhà sử học sẽ phải tốn nhiều công sức để minh chứng sự thật trên. Để làm rõ những đồn đoán này, Phóng viên chuyên đề antg đã đi tìm hiểu sự thật.

1) ***Ấn chỉ kỳ bì trên bàn tay những người nữ thủ từ***

Lần theo thông tin có được, từ TP HCM, chúng tôi vượt hàng trăm cây số đến cù lao huyện Chợ Mới để tìm ngôi mộ được cho là di tích của Công chúa Ngọc Hân. Dù đã được hướng dẫn tỉ mỉ nhưng chúng tôi vẫn phải hỏi thăm rất nhiều người dân địa phương. Người dân ở đây hoàn toàn không biết gì về "ngôi mộ Công chúa Ngọc Hân". Nơi đây, nhiều người không thích đọc và tìm hiểu về lịch sử. Họ chỉ biết lịch sử thông qua các tuồng tích cải lương, phim truyền hình hoặc chuyện kể truyền miệng. Và họ biết về Công chúa Ngọc Hân qua một số tuồng cải lương nhắc đến tích của Quang Trung - Nguyễn Huệ.

Khi chúng tôi hỏi về một ngôi mộ táng không đắp nấm, họ ngớ người rồi cho biết, đó là mộ Bà, dân quanh vùng quen gọi là "mộ Bà Cái Nai". Không ai biết "Bà" là ai. Vì ngôi mộ nằm ven con sông Cái Nai nên người ta gọi như thế. Không ai tin đó là mộ của Công chúa Ngọc Hân - vợ Vua Quang Trung.

Chúng tôi men theo đường nhỏ quanh co uốn lượn theo con sông Cái Nai đi sâu vào một cụm dân cư quạnh quẽ.

Đó là một ngôi mộ táng không đắp nấm nằm trong khuôn viên một công trình kiến trúc kiểu mái đình. Trên chiếc cổng nhỏ xây bằng xi măng ghi rõ "mộ Bà". Ngôi mộ nằm sát tường rào, không đắp nấm. Chúng tôi từng thăm viếng những ngôi mộ không đắp nấm như: Mộ Đức Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên - Giáo chủ sáng lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương; mộ Đức Bổn sư Ngô Tự Lợi - Giáo chủ sáng lập giáo phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa; mộ Đức Phật Trùm Tà Puol…

Những vị này đều có liên quan đến thuyết duy linh "tứ ân, vô tượng" mà người khởi xướng là Đức Phật thầy Tây An. Di tích ngôi mộ của Đức Phật thầy Tây An vẫn hiện diện tại Tây An Cổ tự dưới chân núi Sam, Châu Đốc. Ngôi mộ Bà không đắp nấm, chứng tỏ người quá cố có liên quan đến tín ngưỡng Bửu Sơn Kỳ Hương.

Một bà lão ngoài 80 tuổi, sinh sống gần khu mộ, không muốn nêu tên vì ngại đụng chạm đến tín đồ cho biết: "Ngày xưa, ngôi mộ chỉ có tấm bia sơn màu đỏ, nằm chơi vơi giữa một thửa đất không địa bạ. Tấm bia không có ghi gì cả. Giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương là vậy. Sau ngôi mộ là cái am nhỏ thờ Bà. Thời đó, nơi đây hoang vu vắng vẻ lắm. Lúc tui mới 9, 10 tuổi thì thấy có người đóng hàng rào bằng cây bao bọc khu mộ. Năm 1972, ngôi phủ thờ được xây lớn, tồn tại đến ngày nay".

Chánh điện bày trí như một ngôi chùa chia thành 5 gian thờ. Đặc biệt, tại bàn thờ chính có một tấm bài vị màu điều ghi những dòng chữ Hán: Hoàng Lê đường - Cung thỉnh -Hoàng phủ chi - Lê phủ vị. Có nghĩa là: Nhà thờ họ Hoàng - Lê. Cung kính thỉnh linh vị Hoàng phủ, Lê phủ. Ở hai bên có thêm hai hàng chữ nhỏ: Hoàng đường phước huệ do tiên trạch - Lê phủ chi phái khải hậu nhân. Có nghĩa là: Phước huệ họ Hoàng do nơi ân đức cũ. Chi phái phủ Lê mở lối cho người sau. Nếu chỉ căn cứ vào tấm bài vị này thì người nằm dưới mộ kia họ Lê, trùng khớp với họ của Công chúa Ngọc Hân. Họ Hoàng ở đây có thể hiểu là "họ hoàng tộc"?

Phía cánh trái ngôi chánh điện có một nhóm mộ tháp của nhiều đời thủ từ phần mộ Bà. Điều lạ là tất cả những người thủ từ đều là phụ nữ. Theo truyền thuyết chúng tôi được nghe thì người thủ từ đầu tiên là Công chúa Nguyễn Thị Quang Ngọc, con gái của Vua Quang Trung và Công chúa Ngọc Hân?

Những bô lão quanh vùng không biết mộ Bà có liên quan gì đến Công chúa Ngọc Hân hay không nhưng họ khẳng định những người thủ từ đời trước có một quyền năng rất lạ. Khi người thủ từ cũ già yếu, qua đời, tự dưng sẽ có một người phụ nữ lạ ở nơi khác, không chồng con, tự đến xin làm thủ từ. Khi mới đến, họ chẳng có gì khác biệt nhưng làm thủ từ một thời gian, họ sẽ có một ấn chỉ hình con gà trên lòng bàn tay. Dùng bàn tay này vuốt bàn tay kia, ấn chỉ sẽ xuất hiện. Họ không giải thích được vì sao những người thủ từ bây giờ không có được ấn chỉ đó. Theo họ, đó là linh ấn(?).

Hồi bà Tám thủ từ còn sống, ai bị mắc xương cổ chỉ cần đến nhờ bà dùng bàn tay có linh ấn vuốt nhẹ là khỏi. Bàn tay có linh ấn của bà Tám có thể trị được các bệnh thông thường như cảm, sổ mũi, bong gân, gãy xương tay chân. Chỉ cần bà dùng tay vuốt là hết. Bà Tám qua đời năm 1984, thọ 88 tuổi.

Ảnh: Tấm linh vị nghi là của Lê Hoàng tộc.

2) ***Có phải mộ Công chúa Ngọc Hân?***

Chúng tôi vào phủ thờ gặp người thủ từ. Người thủ từ là một phụ nữ ngoài 50 tuổi, mặc bà ba đen, tự giới thiệu là "cô Ba". Cô Ba tỏ ra khá e dè trong cuộc trò chuyện liên quan đến sự tích ngôi mộ Bà.

Cô Ba cho biết, hiện tại, ngôi phủ thờ và ngôi mộ được "đồng đạo" của Phật giáo Hòa Hảo bảo quản, cúng tế. Cô Ba cũng là một tín đồ Phật giáo Hòa Hảo.

Tuy không có chứng cứ nào nhưng cô Ba khẳng định, phần mộ này là của mẹ ruột đức Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên, không liên quan gì đến Công chúa Ngọc Hân. Cô Ba cho biết: "Cách đây vài năm, tự dưng có một nhóm người xưng là con cháu hoàng tộc đến bảo ngôi mộ này là của Công chúa Ngọc Hân. Họ xin được nhận bảo quản mộ. Họ bảo, căn cứ vào chứng cứ trong quyển sách “Theo dấu người xưa” của tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Tui chưa từng thấy quyển sách đó. Sau đó không thấy họ đến nữa. Tui chỉ biết vậy, nói vậy". Cuộc trò chuyện không thoải mái khiến chúng tôi không có thêm được thông tin gì từ cô Ba.

Chúng tôi xin phép cô Ba chụp ảnh nhiều chi tiết ngôi mộ và phủ thờ rồi đi Tri Tôn tìm đến Tổ đình Tứ Ân Hiếu Nghĩa: Chùa Phi Lai. Tổ đình là cách gọi nơi Đức Bổn sư Ngô Tự Lợi khai sáng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa còn có tên gọi khác là "đạo lành" bởi chủ thuyết của họ là "Tu đâu cho bằng chu tu/ Làm lành, lánh dữ ấy là chân tu". Chùa Phi Lai nằm dưới chân núi Dài, cạnh ngôi đình Phi Lai và cạnh di tích Ponpot xâm phạm biên giới nước ta giết hại hàng ngàn người dân vào năm 1977.

Ảnh: Cô Ba thủ từ phủ thờ mộ Bà.

Cũng giống như cô Ba ở mộ Bà, những người thủ từ ở đây cũng tỏ ra e ngại khi được hỏi về tiểu sử ngôi mộ Bà. Họ cũng xác nhận có một tập sách in mang tựa "Theo dấu người xưa" nhưng không lưu giữ.

Tưởng chừng việc tìm hiểu về ngôi mộ Bà đi vào ngõ cụt, chúng tôi thất vọng quay về. Bất ngờ, khi ghé vào một quán giải khát không tên gần chùa Phi Lai, chủ quán là một phụ nữ đứng tuổi vui tính, tiết lộ: "Tôi không có tập sách ấy nhưng tôi biết địa chỉ tác giả. Ông ta là thầy thuốc Đông y cổ truyền cư ngụ ở Gò Vấp".

Chúng tôi tức tốc trở về TP HCM tìm đến địa chỉ của tác giả tập sách "Theo dấu người xưa".

3) ***Đào đất địa Trần Hữu Thành và tập sách khảo cứu "Theo dấu Người xưa"***

Không ngờ, đó là một cơ sở chẩn trị Đông y ở đường Cây Trâm thuộc quận Gò Vấp, TP HCM rất nổi tiếng về phương pháp châm cứu bằng nhang.

Tại gian tiền sảnh, chúng tôi bắt gặp ngay biểu tượng Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa: Bức chân dung của Đức Phật thầy Tây An và Cử Đa Phật.

Tại phòng khám, một người phụ nữ đang thăm mạch cho bệnh nhân tự giới thiệu là vợ của lương y Trần Hữu Thành. Bà cũng là lương y. Trước khi đưa chúng tôi vào phòng khách của gia đình, bà vui vẻ báo 2 tin… buồn: Ông Thành bị tai biến não, trí nhớ suy giảm trầm trọng và bà không biết gì về công việc sưu tầm của ông cũng như hoàn toàn mù tịt về giáo phái ông theo.

Ông Trần Hữu Thành đi đứng và phát âm rất khó nhọc. Ông phải cố 1 phút mới nói trọn vẹn một câu gần như vô nghĩa. Trò chuyện với ông suốt 4 giờ, chúng tôi chỉ nhận được nội dung: Đào Đất Địa là tên đạo của ông. Ông đã bỏ công sưu tầm suốt gần 10 năm mới hoàn thành quyển sách khảo cứu "Theo dấu người xưa" để giới thiệu phát tích giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Ông đã lặn lội sang tận núi Tà Lơn để tìm dấu tích tiền nhân. Ông là cháu nhiều đời của họ Trần. Ông không còn lưu bản nào của quyển "Theo dấu người xưa". Sau khi quyển sách hoàn thành, ông bị tai biến não và bây giờ không còn nhớ gì cả.

Kết thúc buổi trò chuyện không đầu đuôi, ông an ủi sự thất vọng của chúng tôi bằng một mảnh giấy ghi địa chỉ ông Bảy Thảo ở ấp Vĩnh Hòa A, xã Cần Đăng, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Hy vọng nơi đó còn lưu bản photo.

Chúng tôi trở ngược lại An Giang tìm ông Bảy Thảo và có được quyển photo "Theo dấu người xưa". Quyển sách không đăng ký xuất bản, dưới bìa 1 có ghi dòng chữ "lưu hành nội bộ". Tổng lược nội dung thì quyển sách là một công tình nghiên cứu công phu của tác giả. Rất nhiều chi tiết liên quan đến lịch sử hình thành giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa.

Tuy nhiên, tác giả nghiêng về cứ liệu tâm linh nhiều hơn cứ liệu khoa học nên quyển sách mất giá trị về mặt khảo cứu. Nhiều chi tiết viết về di tích, tác giả dựa vào lời… lên đồng nhập cốt để khẳng định tính xác thực. Tại một chương trong sách, tác giả nêu giả thuyết: Mộ Bà Cái Nai chính là mộ Công chúa Ngọc Hân. Còn ngôi mộ ở làng Phù Ninh bị Thiệu Trị khai quật phá bỏ chỉ là mộ giả.

Trong sách, ông Trần Hữu Thành nêu giả thuyết: Năm Bính Ngọ, 1786, Vua Hiển Tông gả con gái thứ 21 là Công chúa Lê Ngọc Hân cho Chúa Tây Sơn Nguyễn Huệ.

Sau khi Vua Gia Long lên ngôi đã ra lệnh tru di dòng dõi Nguyễn Huệ nhưng có ý định bắt bà Ngọc Hân làm thứ phi. Vì thủ tiết với chồng, bà đã nhờ một người cung nữ là em nuôi, rất giống bà tên là Trần Thị Minh (hoặc Ngọc Minh) thay bà trá hôn, để chiều lòng Gia Long, tìm cách cứu hai con hiện đang bị giam giữ. Sau đó bà đã trốn về quê mẹ là làng Phù Ninh, giả chết, lập mộ ở đó, rồi bí mật cùng hai con gồm 1 trai, 1 gái trốn vào miền Nam đến Cái Nai ẩn cư. Người con trai tên là Nguyễn Quang Mục đổi tên thành Đoàn Minh Huyên, tức Phật thầy Tây An(?) và người con gái tên Nguyễn Thị Bảo Dục (hoặc Dục Bảo), sau đổi tên thành Trần Thị Ngọc (hoặc Trần Thị Ngọc Bảo, Nguyễn Thị Ngọc).

Chúng tôi tiếp tục rời An Giang đi tìm chứng cứ liên quan đến những huyền bí về ngôi mộ thờ Công chúa Ngọc Hân...
(còn tiếp)