Từ xưa, cái tên Tà Lơn trở thành một "thương hiệu uy thế" đối với những người tín ngưỡng huyền thuật ở khu vực Đông Nam Á. Họ tin rằng, những pháp sư có quá trình tu luyện tại núi Tà Lơn mới tài giỏi thật sự. Vì vậy, sau một thời gian dài học pháp thuật nhuần nhuyễn tại quê nhà, những đồ đệ huyền thuật ở các nước này đều khăn gói đổ về núi Tà Lơn, chui vào hang sâu giữa rừng thẳm để… tốt nghiệp cấp đại sư.
Không ít người đã bỏ mạng trong quá trình tu luyện tại đây rồi được giới huyền thuật phong "thánh". PV đã "phượt" đến tận đỉnh núi này để tìm hiểu sự thật.
- Điềm chỉ của một pháp sư Việt
Trước khi sang đất bạn thám hiểm thánh địa Tà Lơn, tôi ghé thăm một ông bạn già tên Chín, cư ngụ ở Tri Tôn, An Giang. Trong giới huyền thuật ở miền Tây Nam Bộ, ông Chín được nhiều nhiều người biết tiếng vì ông đã từng sang Tà lơn luyện phép. Ông Chín cũng rất nổi tiếng ở địa phương vì hàng chục lần bị kiểm điểm tội truyền bá mê tín dị đoan. Với ông, phép thuật không thuộc loại "mê tín dị đoan" mà là một "nét văn hóa tâm linh của người xưa truyền lại". Do mải mê luyện bùa, ngải, phép thuật từ nhỏ nên ông không được đến trường học văn hóa. Tất nhiên, ông mù chữ loại nặng.
Dù mù tất cả các loại chữ viết chính thống trên thế giới nhưng ông lại rất rành các loại chữ bùa, từ chữ bùa Pàli đến chữ bùa Phạn, bùa Lèo, bùa Năm Ông, bùa Lục Sơn (chữ Kh'mer cổ)… Ông đã từng hội ngộ với rất nhiều đại pháp sư khu vực Đông Nam Á tại đỉnh núi Tà Lơn. Những lần hội ngộ như vậy, ông và các đại pháp sư khác quốc tịch, dị biệt ngôn ngữ phải nói chuyện với nhau bằng "tiếng bùa" và "bắt ấn quyết" (tức ra dấu).
Trình độ văn hóa của ông Chín là con số không nhưng trình độ về bùa, chú, ngải thì thuộc đẳng cấp "đại sư". Ông Chín khẳng định, ai cũng biết đường lên đỉnh Tà Lơn nhưng đường đến nơi tu luyện của các pháp sư thì chỉ có giới pháp sư thuộc đẳng cấp trung sư mới có quyền biết. Đó là những địa điểm bí ẩn chưa có trên bản đồ. Ông từ chối tháp tùng, mặc dù tôi đề nghị một cái giá bồi dưỡng khá cao. Không chịu đựng nổi sự nài nỉ quyết tâm của tôi, ông đành vẽ một bản sơ đồ kèm lời khuyên: "Chú cứ chạy xe gắn máy qua bển. Đường xe hơi rộng mênh mông nhưng giá thuê rất mắc. Với xe gắn máy, chú có thể luồn lách nhiều chỗ và chủ động thời gian đi".
Tôi quyết định mang xe gắn máy sang đất bạn đề chinh phục đỉnh Tà Lơn.
Một đạo sĩ người Việt tu luyện nơi hang này và viên tịch, được người địa phương phong thánh, tạc tượng. |
Ông Chín diễn giải, theo tiếng Kh'mer thì "Tà Lơn" có nghĩa là "Ông thần lớn", tức là vua của các vị thần linh. Đối chiếu với văn hóa tâm linh Việt và tiếng Việt thì "tà" không có nghĩa tương xứng. Một số người cho rằng dịch nghĩa "tà" sang tiếng Việt là "thần hoàng bổn cảnh". Tuy nhiên đối chiếu theo văn hóa tín ngưỡng thì điều này sai biệt rất xa. Với người Kh'mer, ông "Tà" là một pháp sư tài giỏi nhất khu vực. Ông Tà dùng huyền thuật trừng trị bất kỳ ai dám chống lại ông, kể cả dân làng. Nếu ai tuân phục ông Tà sẽ được huyền thuật của ông ta bảo vệ. Ông Tà rất nóng tính và hung dữ.
Còn "thần hoàng bổn cảnh" của người Kh'mer luôn luôn là phụ nữ. Theo truyền thuyết Kh'mer, dãy núi Lục Sơn Tà Lơn do một vị thánh nữ được gọi là Veang Kh'mau "cai quản". Người dân Kh'mer sinh sống dưới chân núi Tà Lơn cho rằng, chủ của đất đai vùng này là hoàng tộc Monivong (quốc vương Campuchia) nhưng khai khẩn vùng này là do một người phụ nữ Việt tên Nàng Mau. Ngày xưa, người dân vùng này chỉ biết hái lượm. Nhờ Nàng Mau dạy trồng lúa nước nên người dân không còn đói kém nữa. Và họ đã tôn người phụ nữ này làm vị thánh đại diện cho lòng nhân ái. Người ta đã xây một bức tượng Veang Kh'mau cao khoảng 20 mét đặt trên đỉnh Bokor.
- Tiểu sử “thành phố ma”
Đường từ chân lên đỉnh núi dài 33 km được tráng nhựa rất phẳng, đẹp và hiện đại. Đó là con đường độc đạo lên núi. Những cung đường ưỡn ẹo trên những con đèo sâu hun hút và nhiệt độ khoảng 20oC khiến tôi có cảm giác như mình đang chạy xe trên đoạn đèo Đà Lạt.
Năm 1890, thực dân Pháp truy lùng một số người Việt Nam ẩn cư giữa rừng sâu trên đỉnh núi. Khi đó, họ phát hiện khí hậu vùng hoang sơ này rất lý tưởng cho việc nghỉ mát. Đến năm 1921, sau 9 tháng xây dựng, Pháp biến vùng rừng hoang thành một thị trấn trên núi mang tên tiếng Anh là Bokor Hill gồm: Nhà thờ Thiên Chúa giáo, bưu điện, bệnh viện, khách sạn. Các pháp sư bị nhà cầm quyền cầm tù. Những cái am, những hang động tu luyện của các pháp sư đều bị bỏ hoang phế. Một số pháp sư chạy sâu vào rừng tìm những hang động vắng tiếp tục tu luyện.
Ẩn dưới bãi đá là hàng ngàn hang động. |
Đến năm 1940, thất trận trước quân đội Nhật hoàng, thực dân Pháp co cụm về Phnôm Pênh, bỏ hoang thị trấn Bokor Hill. Sau năm 1945, khi Campuchia độc lập, nhà vua Shihanuk (cha) đã cho xây một cung điện nghỉ dưỡng ở đây và tái sử dụng các công trình của Pháp. Nhưng đến thời Kh'mer Đỏ diệt chủng, toàn bộ thị trấn nhỏ này bị phá hoang tàn. Khi Campuchia được giải phóng khỏi nạn diệt chủng của Pôn Pốt, người ta đã bỏ quên vùng núi hoang vắng này một thời gian dài. Suốt thời gian đó, chỉ có các pháp sư và tín đồ của họ thỉnh thoảng đi lên núi theo những con đường mòn hiểm trở để cúng bái và truyền phép thuật.
Bất ngờ năm 2001, đạo diễn Hollywood Matt Dillon nghe câu chuyện về Bokor bởi một đạo sĩ người Myanmar đã từng tu luyện nơi đây. Năm 2002, Matt Dillon cùng đoàn phim của ông đến tận Bokor thực hiện bộ phim City of Ghost.
Bộ phim nổi tiếng đến nỗi, từ năm 2003, dân Tây du lịch đến Campuchia đều đòi đến thăm "thành phố ma". Rừng thẳm, non cao của Bokor bị đánh thức.
Hiện giờ, trên đỉnh Bokor, cung điện Hoàng gia đã được xây dựng lại thành Bokor casino và một cụm phức hợp khách sạn casino Thansur Bokor Highland phục vụ du khách ngoại quốc hoạt động ngày đêm.
Các điểm am, miếu tu luyện của pháp sư thời xa xưa trở thành một quần thể du lịch tâm linh không thể thiếu của Bokor.
Tuy nhiên, theo thông lệ hàng năm, các pháp sư Đông Nam Á vẫn tìm về Bokor đi sâu hơn vào rừng, tìm những hang động hoang sơ để thu nạp tinh - khí - thần của vùng thánh địa.
- Huyền thoại những hang động vô danh
Trong các thư tịch, di ngôn, di tự của Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên - Giáo chủ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương; Bổn Sư Núi Tượng Ngô Tư Lợi - Giáo chủ đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa; Phật Trùm, Phật sống Cử Đa, Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, Phật sống Trúc Lâm Nương, Trịnh Công Hương v.v… cho thấy các vị này đều đạt chánh quả, đắc đạo ở ngôi chùa Năm Thuyền này.
Những pháp sư nổi tiếng trước năm 1960 ở miền Nam như Thợ Đức Lỗ Ban; Ông Ba "bùa gồng"; tướng cướp Đơn Hùng Tín; Đông Cung Phan Xích Long và rất nhiều vị đại pháp sư khác cũng đã từng sang khu vực Năm Thuyền luyện phép.
Một bát hương dành cho người "đắc đạo". |
Theo các tài liệu của các pháp sư Việt thì đó là một ngôi am nhỏ do Vua Monivong xây cất vào năm 1924 cho Hoàng tử Pre Thoong đến tu luyện. Pre Thoong được một đại pháp sư người Việt có tên thường gọi là Ba Gang hướng dẫn vào đây luyện phép tiên. Do nơi đây có 5 tảng đá hình chiếc thuyền nên được gọi là Năm Thuyền. Ông Ba Gang và Cử Đa là hai phó tướng của Quản cơ Trần Văn Thành - người chỉ huy cuộc khởi nghĩa Láng Linh - Bảy Thưa trong giai đoạn chống thực dân Pháp (1867 -1868). Sau khi kháng địa bị thất thủ, Quản cơ Trần Văn Thành tử trận, Cử Đa và Ba Gang về núi Tà Lơn tu luyện phép thuật chờ thời cơ. Lần lượt họ viên tịch tại nơi này và được dân địa phương đúc tượng phong thánh.
Ngày nay, Năm Thuyền không còn là ngôi chùa hoang vắng, u tịch. Nhà đầu tư đã xóa hầu hết dấu tích người Việt và "cải biên" thành một khu du lịch tấp nập người. Họ đã biến tượng Cử Đa và tượng Ba Gang thành "Phật Kh'mer". Ông "lục cả" trụ trì ngôi chùa là người Việt Nam cũng không còn.
Lần theo sơ đồ ông Chín "thầy pháp", tôi rời chùa Năm Thuyền, tiếp tục đi sâu xuống vực núi để đến một nơi đặc biệt. Đó là nơi có nhiều hang động huyền bí dành cho những pháp sư "thi tốt nghiệp cấp đại sư".
Vượt qua con suối, trước mặt tôi hiện ra một bãi đá rộng đến hút tầm mắt. Bãi đá mang nhiều hình thù quái dị chen lẫn với những loài cây cỏ dại. Hàng ngàn khối đá đa hình thù xếp chồng lên nhau tạo thành những cái am thiên nhiên lý tưởng và yên tịnh.
Dù đang giữa trưa, mặt trời đứng bóng nhưng ánh nắng rất dịu mát. Thỉnh thoảng, một làn mây xám bao phủ khiến cảnh vật trời đất trở nên âm u huyền bí. Tôi có cảm giác như mình đang lạc vào cảnh thượng giới. Tôi đi sâu vào bãi đá khoảng 1.000 mét. Ẩn dưới những khối đá, hàng hàng lớp lớp hang động sâu hút. Rất nhiều hang có dấu tích con người. Trước cửa một số hang ai đó đã đặt một bát nhang. Ông Chín "thầy pháp" đã từng kể cho tôi nghe chuyện một số pháp sư đến đây luyện phép và chết luôn trong hang. Với trường hợp như vậy, các pháp sư cho rằng, người chết đã đạt chánh quả và được phong thánh. Tuy nhiên, do không để lại tên tuổi nên các pháp sư đến sau gọi chung những "vị thánh" này theo tiếng Kh'mer là "tà phnum", có nghĩa là thần núi.
Lấy can đảm, tôi thử chui xuống một hang có bát nhang. Cửa hang hẹp vừa vặn thân người nên bên dưới hang tối đen như mực. Chân tôi chạm một phiến đá phẳng khoảng 1m2. Qua ánh đèn pin, tôi thấy trên phiến đá vẫn còn sót lại vài mẩu ngải khô, vài mẫu vải mục đã biến màu. Bên cạnh phiến đá còn có một khe đá sâu hun hút. Không mang theo dụng cụ leo núi, tôi đành bỏ cuộc rời khỏi hang.
Tình cờ khi trở về chùa Năm Thuyền, tôi gặp được một người đàn ông.
Ông tên Vang, 46 tuổi, cư ngụ tại phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang, thuộc phái Trà Kha. Ông Vang vừa hoàn tất ngày luyện phép thứ 49 dưới một hang nơi bãi đá. Ông vui vẻ cho biết, nếu tôi đến đây sớm trước một tháng sẽ gặp ít nhất 20 pháp sư như ông ta. Giờ họ đã rời núi, chỉ còn mỗi mình ông ở lại cúng bái tạ ơn các "lục tà" ở chùa Năm Thuyền.
(Nguồn: tinmoi.vn)