VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẠO TỨ ÂN HIẾU NGHĨA LẦN THỨ 1!
=0=
(http://www.vietnamplus.vn/Home/Dai-hoi-Tu-An-Hieu-Nghia-dien-ra-tai-An-Giang/20105/44377.vnplus)
Trong hai ngày 8 và 9/5, Đại hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa lần 1 nhiệm kỳ 2010-2015 đã diễn ra tại chùa Tam Bửu-Phi Lai, thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
Phát biểu tại đại hội, ông Phạm Huy Thơ - Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ đề nghị đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho các tín đồ hiểu rõ để an tâm hành đạo; thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của người công dân; hướng dẫn các gánh và tín đồ tu học đúng theo chơn truyền giáo lý của Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi, nêu cao tinh thần gương mẫu của các trưởng gánh và đẩy mạnh công tác xã hội từ thiện.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là tôn giáo nội sinh, được thành lập từ năm 1867 đến nay đã 143 năm, từ nhu cầu đấu tranh chống thực dân Pháp và gắn liền với quá trình khai hoang lập thôn, do Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi sáng lập tại vùng Bảy Núi tỉnh An Giang (được gọi là Nội thôn).
Đến nay, đạo đã thu thút hàng chục nghìn tín đồ không chỉ ở tỉnh An Giang mà mở rộng ra nhiêu tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long như Kiên Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Cần Thơ và Bà Rịa Vũng Tàu (Ngoại thôn) sinh hoạt tại 24 gánh.
Giáo lý của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là sự tổng hợp của ba tôn giáo gồm Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo; tín đồ hành đạo theo tôn chỉ “Tu nhân học Phật, Tứ đại trọng ân” là ân cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào nhân loại, phù hợp với bản sắc văn hóa và tiêu chuẩn đạo đức của người Nam Bộ./.
Phát biểu tại đại hội, ông Phạm Huy Thơ - Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ đề nghị đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho các tín đồ hiểu rõ để an tâm hành đạo; thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của người công dân; hướng dẫn các gánh và tín đồ tu học đúng theo chơn truyền giáo lý của Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi, nêu cao tinh thần gương mẫu của các trưởng gánh và đẩy mạnh công tác xã hội từ thiện.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là tôn giáo nội sinh, được thành lập từ năm 1867 đến nay đã 143 năm, từ nhu cầu đấu tranh chống thực dân Pháp và gắn liền với quá trình khai hoang lập thôn, do Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi sáng lập tại vùng Bảy Núi tỉnh An Giang (được gọi là Nội thôn).
Đến nay, đạo đã thu thút hàng chục nghìn tín đồ không chỉ ở tỉnh An Giang mà mở rộng ra nhiêu tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long như Kiên Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Cần Thơ và Bà Rịa Vũng Tàu (Ngoại thôn) sinh hoạt tại 24 gánh.
Giáo lý của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là sự tổng hợp của ba tôn giáo gồm Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo; tín đồ hành đạo theo tôn chỉ “Tu nhân học Phật, Tứ đại trọng ân” là ân cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào nhân loại, phù hợp với bản sắc văn hóa và tiêu chuẩn đạo đức của người Nam Bộ./.
Vương Thoại Trung (Vietnam+ )
Đại hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa diễn ra tại An Giang
(Theo vietnamplus.vn )
Trong hai ngày 8 và 9/5, Đại hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa lần 1 nhiệm kỳ 2010-2015 đã diễn ra tại chùa Tam Bửu-Phi Lai, thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
Phát biểu tại đại hội, ông Phạm Huy Thơ - Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ đề nghị đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho các tín đồ hiểu rõ để an tâm hành đạo; thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của người công dân; hướng dẫn các gánh và tín đồ tu học đúng theo chơn truyền giáo lý của Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi, nêu cao tinh thần gương mẫu của các trưởng gánh và đẩy mạnh công tác xã hội từ thiện.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là tôn giáo nội sinh, được thành lập từ năm 1867 đến nay đã 143 năm, từ nhu cầu đấu tranh chống thực dân Pháp và gắn liền với quá trình khai hoang lập thôn, do Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi sáng lập tại vùng Bảy Núi tỉnh An Giang (được gọi là Nội thôn).
Đến nay, đạo đã thu thút hàng chục nghìn tín đồ không chỉ ở tỉnh An Giang mà mở rộng ra nhiêu tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long như Kiên Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Cần Thơ và Bà Rịa Vũng Tàu (Ngoại thôn) sinh hoạt tại 24 gánh.
Giáo lý của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là sự tổng hợp của ba tôn giáo gồm Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo; tín đồ hành đạo theo tôn chỉ “Tu nhân học Phật, Tứ đại trọng ân” là ân cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào nhân loại, phù hợp với bản sắc văn hoá và tiêu chuẩn đạo đức của người Nam Bộ./.
Phát biểu tại đại hội, ông Phạm Huy Thơ - Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ đề nghị đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho các tín đồ hiểu rõ để an tâm hành đạo; thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của người công dân; hướng dẫn các gánh và tín đồ tu học đúng theo chơn truyền giáo lý của Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi, nêu cao tinh thần gương mẫu của các trưởng gánh và đẩy mạnh công tác xã hội từ thiện.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là tôn giáo nội sinh, được thành lập từ năm 1867 đến nay đã 143 năm, từ nhu cầu đấu tranh chống thực dân Pháp và gắn liền với quá trình khai hoang lập thôn, do Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi sáng lập tại vùng Bảy Núi tỉnh An Giang (được gọi là Nội thôn).
Đến nay, đạo đã thu thút hàng chục nghìn tín đồ không chỉ ở tỉnh An Giang mà mở rộng ra nhiêu tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long như Kiên Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Cần Thơ và Bà Rịa Vũng Tàu (Ngoại thôn) sinh hoạt tại 24 gánh.
Giáo lý của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là sự tổng hợp của ba tôn giáo gồm Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo; tín đồ hành đạo theo tôn chỉ “Tu nhân học Phật, Tứ đại trọng ân” là ân cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào nhân loại, phù hợp với bản sắc văn hoá và tiêu chuẩn đạo đức của người Nam Bộ./.
Đại hội Đại biểu đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa lần thứ I: “Hành Tứ Ân - sống hiếu nghĩa, vì đại đoàn kết toàn dân tộc” Cập nhật ngày: 10/05/2010 17:57:35
Tại Di tích Lịch sử - Văn hóa chùa Tam Bửu – Phi Lai (thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn), đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa vừa tổ chức Đại hội Đại biểu lần thứ I (nhiệm kỳ 2010-2015), với sự tham dự của 120 đại biểu chính thức đại diện hơn 80.000 tín đồ (11 tỉnh, thành phố phía Nam) của 24 Gánh đạo. Các ông: Phạm Huy Thơ, Phó trưởng ban Tôn giáo Chính phủ; Nguyễn Chánh Tháo, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy đã đến dự.
Đại hội đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa nhiệm kỳ I (2010-2015).
Đại hội thông qua Hiến chương đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa theo tôn chỉ hành đạo “Hành Tứ Ân - sống hiếu nghĩa, vì đại đoàn kết toàn dân tộc” với tổ chức 2 cấp đạo là Đạo hội (cấp toàn đạo) và Gánh đạo (cấp cơ sở trực tiếp). Đại hội nhất trí đề ra chương trình hoạt động của Đạo hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa nhiệm kỳ 2010-2015, với những nội dung cơ bản tập trung củng cố và kiện toàn tổ chức; sinh hoạt tín ngưỡng và tôn giáo; xây dựng đời sống kinh tế và văn hóa; ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực, cảnh giác với những phần tử xấu, đảm bảo sự phát triển bền vững của Đạo hội.
Tin, ảnh: TRỌNG ÂN
Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, Đạo Tứ Ân Hiếu nghĩa tiếp tục phát huy đạo pháp “Hành Tứ Ân - Sống Hiếu nghĩa - Vì đại đoàn kết toàn dân tộc”
Trong 2 ngày 8 và 9/5, tại chùa Tam Bửu - Phi Lai, thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn (An Giang), diễn ra Đại hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa lần thứ I, nhiệm kỳ 2010 – 2015. Tham dự có ông Phạm Huy Thơ, Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ cùng đông đảo lãnh đạo tỉnh, huyện, các ban ngành đoàn thể và 120 đại biểu tín đồ tham dự. Đại hội đã suy tôn 24 trưởng Gánh và 6 Ban giúp việc.
Phát biểu với Đại hội, ông Phạm Huy Thơ đề nghị Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho các tín đồ hiểu rõ để an tâm hành đạo; thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của người công dân; hướng dẫn các Gánh và tín đồ tu học đúng theo chơn truyền giáo lý của Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi; củng cố kiện toàn bộ máy và xây dựng khối đại đoàn kết, nêu cao tinh thần gương mẫu của các trưởng Gánh và đẩy mạnh công tác xã hội từ thiện, xứng đáng là nhân tố quan trọng góp phần cho dân tộc Việt Nam thực hiện duy trì tốt mục tiêu "Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”…
Trong nhiệm kỳ I (2010 - 2015), Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp tục phát huy đạo pháp “Hành Tứ Ân - Sống Hiếu nghĩa - Vì đại đoàn kết toàn dân tộc”, tập trung đào tạo đội ngũ kế thừa có phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ năng lực am hiểu việc đạo, làm tốt việc đời; hỗ trợ các Gánh hoạt động đúng hiến chương, quy chế, nội qui và pháp luật, giữ gìn phát huy truyền thống đạo pháp của dân tộc; hoạt động tín ngưỡng bình thưởng; hưởng ứng thực hiện tốt phong trào “Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; mỗi trưởng Gánh là tấm gương sáng, chăm lo phát triển đạo; xây dựng và phát huy tinh thần đoàn kết với các tôn giáo, đạo đời, tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng…
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa là tôn giáo nội sinh, được thành lập từ năm 1867, đến nay đã 143 năm, từ nhu cầu đấu tranh chống thực dân Pháp và gắn liền với quá trình khai hoang lập thôn, do Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi sáng lập tại vùng Bảy Núi tỉnh An Giang (được gọi là Nội thôn).
Đến nay, đã thu hút hàng chục ngàn tín đồ, không chỉ ở tỉnh An Giang mà mở rộng ra nhiều tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long như Kiên Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Cần Thơ và Bà Rịa Vũng Tàu (Ngoại thôn) sinh hoạt tại 24 Gánh./.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa phát huy đạo pháp “Hành Tứ Ân - Sống Hiếu nghĩa - Vì đại đoàn kết toàn dân tộc”
Trong 2 ngày 8 và 9/5, tại chùa Tam Bửu - Phi Lai, thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn (An Giang), đã diễn ra Đại hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa lần I nhiệm kỳ 2010 – 2015. Tham dự có ông Phạm Huy Thơ - Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ cùng đông đảo lãnh đạo tỉnh, huyện, các ban ngành đoàn thể và 120 đại biểu tín đồ tham dự. Đại hội đã suy tôn 24 trưởng Gánh và 6 Ban giúp việc.
Phát biểu với Đại hội, ông Phạm Huy Thơ - Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ đề nghị đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho các tín đồ hiểu rõ để an tâm hành đạo; thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của người công dân; hướng dẫn các Gánh và tín đồ tu học đúng theo chơn truyền giáo lý của Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi; củng cố kiện toàn bộ máy và xây dựng khối đại đoàn kết, nêu cao tinh thần gương mẫu của các trưởng Gánh và đẩy mạnh công tác xã hội từ thiện theo đúng chơn truyền giáo lý của Đức Bổn sư Ngô (Tự) Lợi đã dầy công xây dựng, đồng thời xứng đáng là nhân tố quan trọng góp phần cho dân tộc Việt Nam thực hiện duy trì tốt mục tiêu " Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đ ạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước cho các tín đồ hiểu rõ để an tâm hành đạo; thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của người công dân; hướng dẫn các Gánh và tín đồ tu học đúng theo chơn truyền giáo lý của Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi; củng cố kiện toàn bộ máy và xây dựng khối đại đoàn kết, nêu cao tinh thần gương mẫu của các trưởng Gánh và đẩy mạnh công tác xã hội từ thiện theo đúng chơn truyền giáo lý của Đức Bổn sư Ngô (Tự) Lợi đã dầy công xây dựng, đồng thời xứng đáng là nhân tố quan trọng góp phần cho dân tộc Việt Nam thực hiện duy trì tốt mục tiêu” Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đạo Tứ Ân Hiếu nghĩa là tôn giáo nội sinh, được thành lập từ năm 1867 đến nay đã 143 năm, từ nhu cầu đấu tranh chống thực dân Pháp và gắn liền với quá trình khai hoang lập thôn, do Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi sáng lập tại vùng Bảy Núi tỉnh An Giang (được gọi là Nội thôn), đến nay đã thu thút hàng chục ngàn tín đồ không chỉ ở tỉnh An Giang mà mở rộng ra nhiêu tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long như Kiên Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Cần Thơ và Bà Rịa Vũng Tàu (Ngoại thôn) sinh hoạt tại 24 Gánh.
Giáo lý của đạo Tứ Ân Hiếu nghĩa là sự tổng hợp của 3 tôn giáo gồm Phật giáo, nho giáo, lão giáo; tín đồ hành đạo theo tôn chỉ “Tu nhân học Phật, Tứ đại trọng Ân” là Ân cha mẹ, Ân đất nước, Ân tam bảo, Ân đồng bào nhân loại, phù hợp với bản sắc văn hóa và tiêu chuẩn đạo đức của người Nam bộ. Với đặc thù tập hợp hầu hết là các sĩ phu yêu nước từ thời kỳ chống Pháp. Tiếp tục công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vùng Bảy Núi là căn cứ cách mạng cũng thu hút đông đảo tín đồ của Tứ Ân Hiếu Nghĩa, theo thống kê chưa đầy đủ hiện nay toàn đạo đã có 5 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 3 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 250 gia đình thương binh, 380 gia đình liệt sĩ, 430 gia đình có công với cách mạng, 265 là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hiện nay đã có nhiều tín đồ còn giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền tại địa phương. Trước thành tích đó, xã Ba Chúc cái nôi của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã 2 lần được nhà nước phong tặng “xã Anh hùng”, danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Từ khi được Nhà nước công nhận pháp nhân hoạt động, ngoài củng cố phát triển, đạo còn góp sức cùng Đảng, Nhà nước chăm lo đời sống an sinh xã hội cho tín đồ và dân cư trong vùng, tạo thu nhập bình quân thu nhập đầu người trong tín đồ là 6,4 triệu đồng/năm, xây dựng đời sống văn hóa với 85% hộ được công nhận “Gia đình văn hóa”, hàng năm các tín đồ còn đóng góp hàng trăm triệu đồng xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương, nhà đại đoàn kết và công tác xã hội từ thiện cứu giúp người nghèo và đặc biệt là bảo vệ giữ vững chủ quyền biên giới và trật tự xã hội nội địa.
Trong nhiệm kỳ I (2010 - 2015), tiếp tục phát huy đạo pháp “Hành Tứ Ân - Sống Hiếu nghĩa - Vì đại đoàn kết toàn dân tộc”, tập trung đào tạo đội ngũ kế thừa có phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ năng lực am hiểu việc đạo, làm tốt việc đời; hỗ trợ các Gánh hoạt động đúng hiến chương, quy chế, nội qui và pháp luật, giữ gìn phát huy truyền thống đạo pháp của dân tộc; hoạt động tín ngưỡng bình thưởng; hưởng ứng thực hiện tốt phong trào “Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; mỗi trưởng Gánh là tậm gương sáng, chăm lo phát triển đạo; xây dựng và phát huy tinh thần đoàn kết với các tôn giáo, đạo đời, tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng…./.
Phát biểu với Đại hội, ông Phạm Huy Thơ - Phó trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ đề nghị đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho các tín đồ hiểu rõ để an tâm hành đạo; thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của người công dân; hướng dẫn các Gánh và tín đồ tu học đúng theo chơn truyền giáo lý của Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi; củng cố kiện toàn bộ máy và xây dựng khối đại đoàn kết, nêu cao tinh thần gương mẫu của các trưởng Gánh và đẩy mạnh công tác xã hội từ thiện theo đúng chơn truyền giáo lý của Đức Bổn sư Ngô (Tự) Lợi đã dầy công xây dựng, đồng thời xứng đáng là nhân tố quan trọng góp phần cho dân tộc Việt Nam thực hiện duy trì tốt mục tiêu " Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đ ạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước cho các tín đồ hiểu rõ để an tâm hành đạo; thực hiện tốt nghĩa vụ, trách nhiệm của người công dân; hướng dẫn các Gánh và tín đồ tu học đúng theo chơn truyền giáo lý của Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi; củng cố kiện toàn bộ máy và xây dựng khối đại đoàn kết, nêu cao tinh thần gương mẫu của các trưởng Gánh và đẩy mạnh công tác xã hội từ thiện theo đúng chơn truyền giáo lý của Đức Bổn sư Ngô (Tự) Lợi đã dầy công xây dựng, đồng thời xứng đáng là nhân tố quan trọng góp phần cho dân tộc Việt Nam thực hiện duy trì tốt mục tiêu” Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đạo Tứ Ân Hiếu nghĩa là tôn giáo nội sinh, được thành lập từ năm 1867 đến nay đã 143 năm, từ nhu cầu đấu tranh chống thực dân Pháp và gắn liền với quá trình khai hoang lập thôn, do Đức bổn sư Ngô (Tự) Lợi sáng lập tại vùng Bảy Núi tỉnh An Giang (được gọi là Nội thôn), đến nay đã thu thút hàng chục ngàn tín đồ không chỉ ở tỉnh An Giang mà mở rộng ra nhiêu tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long như Kiên Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang, Đồng Tháp, Trà Vinh, Cần Thơ và Bà Rịa Vũng Tàu (Ngoại thôn) sinh hoạt tại 24 Gánh.
Giáo lý của đạo Tứ Ân Hiếu nghĩa là sự tổng hợp của 3 tôn giáo gồm Phật giáo, nho giáo, lão giáo; tín đồ hành đạo theo tôn chỉ “Tu nhân học Phật, Tứ đại trọng Ân” là Ân cha mẹ, Ân đất nước, Ân tam bảo, Ân đồng bào nhân loại, phù hợp với bản sắc văn hóa và tiêu chuẩn đạo đức của người Nam bộ. Với đặc thù tập hợp hầu hết là các sĩ phu yêu nước từ thời kỳ chống Pháp. Tiếp tục công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vùng Bảy Núi là căn cứ cách mạng cũng thu hút đông đảo tín đồ của Tứ Ân Hiếu Nghĩa, theo thống kê chưa đầy đủ hiện nay toàn đạo đã có 5 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 3 Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, 250 gia đình thương binh, 380 gia đình liệt sĩ, 430 gia đình có công với cách mạng, 265 là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hiện nay đã có nhiều tín đồ còn giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền tại địa phương. Trước thành tích đó, xã Ba Chúc cái nôi của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đã 2 lần được nhà nước phong tặng “xã Anh hùng”, danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Từ khi được Nhà nước công nhận pháp nhân hoạt động, ngoài củng cố phát triển, đạo còn góp sức cùng Đảng, Nhà nước chăm lo đời sống an sinh xã hội cho tín đồ và dân cư trong vùng, tạo thu nhập bình quân thu nhập đầu người trong tín đồ là 6,4 triệu đồng/năm, xây dựng đời sống văn hóa với 85% hộ được công nhận “Gia đình văn hóa”, hàng năm các tín đồ còn đóng góp hàng trăm triệu đồng xây dựng nhà tình nghĩa, tình thương, nhà đại đoàn kết và công tác xã hội từ thiện cứu giúp người nghèo và đặc biệt là bảo vệ giữ vững chủ quyền biên giới và trật tự xã hội nội địa.
Trong nhiệm kỳ I (2010 - 2015), tiếp tục phát huy đạo pháp “Hành Tứ Ân - Sống Hiếu nghĩa - Vì đại đoàn kết toàn dân tộc”, tập trung đào tạo đội ngũ kế thừa có phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ năng lực am hiểu việc đạo, làm tốt việc đời; hỗ trợ các Gánh hoạt động đúng hiến chương, quy chế, nội qui và pháp luật, giữ gìn phát huy truyền thống đạo pháp của dân tộc; hoạt động tín ngưỡng bình thưởng; hưởng ứng thực hiện tốt phong trào “Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; mỗi trưởng Gánh là tậm gương sáng, chăm lo phát triển đạo; xây dựng và phát huy tinh thần đoàn kết với các tôn giáo, đạo đời, tương trợ lẫn nhau trong cộng đồng…./.
(TTXVN)
==========================================Người Việt bắt đầu đến vùng đất An Giang từ lúc nào, đến nay chưa thấy sử sách ghi chép rõ ràng. Tuy nhiên theo truyền thuyết dân gian và một số vết tích còn lại, thì đã có một số nhóm người Việt gốc miền Trung vào đây từ rất lâu.
Mặc dù cuộc sống ban đầu gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm nhưng họ vẫn kiên trì tìm đất sống. Họ ở rải rác dọc theo bờ sông Tiền và sông Hậu.
Khi Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lược, đã thấy có người Việt ở vùng Bình Mỹ (Châu Phú), vùng Châu Đốc và vùng cù lao Cây Sao (cù lao Ông Chưởng). Tương truyền khi thuyền quân xuôi dòng Cửu Long (1700), Nguyễn Hữu Cảnh ghé lại những nơi có người Việt ở để thăm hỏi và khích lệ mọi người giữ tình thân thiện dù không cùng chủng tộc. Ông cũng cho phép một số binh phu được ở lại theo ven sông vùng Châu Phú, Châu Đốc, Tân Châu, Chợ Mới cày cấy làm ăn .
Lưu dân ở vùng Cù lao Ông Chưởng được gọi là dân “hai huyện” (Phước Long và Tân Bình). Họ được xem là mẫu mực về thuần phong mỹ tục, giữ vững được nếp ăn, nếp nghĩ của người Việt. Từ Chợ Mới đến Cái Hố theo lòng rạch Ông Chưởng, ta gặp một số gia đình cố cư, ông bà của họ đến đây cư ngụ từ đời Gia Long, Minh Mạng hoặc lâu hơn (6 đời).
Ở Cù lao Giêng, có một địa danh xưa là bến đò Phủ Thờ. Phủ Thờ này là của họ Nguyễn từ Bình Định vào, con cháu ngày nay ở vào đời thứ 7, thứ 8, cư ngụ kề nhau đông đúc.Người Việt đi vào phương Nam lập nghiệp với cả gia đình cha mẹ, vợ con, và khi đã đến thì không thể về, vì quá xa.
Nhờ các chính sách của Chúa Nguyễn mà công cuộc khai hoang mở mang bờ cỏi phương Nam của dân Việt ngày càng nhanh chóng.
Khi tỉnh An Giang mới thành lập, dọc theo hữu ngạn sông Tiền, dân cư khá đông, tập trung ở cù lao Ông Chưởng. Một số thôn, xã được thành lập. Riêng cù lao Giêng tuy không rộng lắm, nhưng sanh kế dễ dàng, nên qui tụ được 4 thôn.
Phía hữu ngạn sông Hậu, dân cư thưa thớt. Từ biên giới Việt – Miên xuống Long Xuyên chỉ có các làng Bình Thạnh Tây (đối diện Bình Thạnh Đông bây giờ), Bình Đức, Mỹ Phước.
Vùng An Giang gồm 2 khu vực mới và cũ riêng biệt :
- Phía Tân Châu, Ông Chưởng, Chợ Mới dễ canh tác, dân đông, làng cũ vì đã lập từ lâu .
- Phía hữu ngạn sông Hậu, là vùng rừng núi hoang vu, đất khó canh tác, dân thưa thớt, làng mới lập .
Việc di dân lập ấp ở An Giang có công đóng góp rất lớn của Thoại Ngọc Hầu, bắt đầu từ năm Đinh Sửu 1817. Lúc bấy giờ nhiều nhà cửa của nông dân đã được dựng lên, các đình chùa cũng bắt đầu xây cất. Năm 1818, theo lệnh triều đình, Nguyễn Văn Thoại đốc suất đào kinh Đông Xuyên ra đến Rạch Giá, tạo điều kiện canh tác thuận lợi cho dân khẩn hoang 2 bên bờ kênh.
Đào kênh Vĩnh Tế xong, Nguyễn Văn Thoại cho đắp con đường từ Châu Đốc đến núi Sam, nhờ đó mà dân từ Châu Đốc vào núi Sam khẩn ruộng, lần hồi tiến đến khai phá vùng Tịnh Biên .
Đầu thế kỷ XIX đã nhiều lần quân Xiêm xâm lấn nước ta. Hà Tiên, Châu Đốc là những vùng bị thiệt hại trước tiên và nặng nề nhất. Năm 1833, giặc Xiêm tàn phá dọc kênh Vĩnh Tế, chiếm Châu Đốc và tràn qua Tân Châu. Nhưng chỉ 5 năm sau dân cư đã quy tụ trở lại, thành lập hàng chục thôn rải rác từ núi Sam dọc theo 2 bờ kênh Vĩnh Tế về phía Hà Tiên .
Vùng Châu Đốc là biên cương hiểm trở, vừa sản xuất vừa phải đối phó với ngoại xâm. Mỗi người dân khẩn hoang là một lính thú biên cương.
Gia tộc Lê Công gốc Thanh Hóa là một trong những nhóm di dân đến khai phá vùng Châu Đốc (khoảng năm 1785 – 1837). Hiện con cháu đời thứ 7 còn cư ngụ ở đây .Gia tộc thứ 2 cũng có công khai phá vùng Châu Đốc là dòng Nguyễn Khắc, thuộc con cháu của Nguyễn Văn Thoại .
Dưới đời vua Minh Mạng, tội phạm lưu đày phần lớn gom về vùng Vĩnh Tế để lập các xóm dọc bờ kênh, dần dần hình thành vùng dân cư .
Nguyễn Tri Phương, khi làm kinh lược sứ ở miền Nam , đã có sáng kiến lập đồn điền biên giới nhằm ngăn giặc, yên dân, tập trung ở vùng Châu Đốc, Hà Tiên. Năm 1854, Nguyễn Tri Phương báo cáo đã thành lập được 21 cơ đồn điền. Hai năm sau, tỉnh An Giang và Hà Tiên đã chiêu mộ được 1.646 dân đinh, lập 159 thôn ấp .
Trong thời gian này, người Chăm ở ngang chợ Châu Đốc (Đa Phước, Châu Phong) cũng gom lại từng đội, do 1 viên Hiệp quản đứng đầu. Từ bên Chân Lạp, người Chăm rút về nương náu trong lãnh thổ Việt Nam để tránh loạn lạc nội chiến bên Chân Lạp, rồi định cư luôn ở Tân Châu, An Phú . . . . .
Cùng thời đó, người theo đạo Thiên Chúa lánh nạn kỳ thị tôn giáo của vua quan nhà Nguyễn từ miền ngoài đến khá sớm ở cù lao Giêng (1778), Bò Ót (1779) và Năng Gù (1845) đã làm tăng thêm dân số vùng đất An Giang.
Tư liệu trước đây nói về nguồn gốc các dân tộc thiểu số ở An Giang như :
- Người Khmer: Là dân bản địa kì cựu, hầu hết đều sinh ở Việt Nam nên gọi là người Việt gốc Khmer, tập trung nhiều nhất ở các quận Tri Tôn và Tịnh Biên. Phong tục và tiếng nói của họ cũng không khác người Khmer ở chánh quốc. Họ sùng bái đạo Phật, tôn kính các sư sãi và sẵn sàng dâng cúng cho chùa những huê lợi do họ làm ra để cầu phúc.- Người Chăm và người Mã Lai đến ở vùng Châu Đốc từ năm 1840. Trước kia họ sống ở Cao Miên.
- Người Hoa: Theo dụ số 48 ngày 21/8/1956 của chính quyền Ngô Đình Diệm sửa đổi bộ luật quốc tịch Việt Nam, thì những người Hoa sinh đẻ tại Việt Nam kể như dân Việt Nam.Đến An Giang còn có những người theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Lực lượng này gồm dân các tỉnh chung quanh (Gia Định, Mỹ Tho, Vĩnh Long…) theo về với đạo, phần lớn tập trung khai phá vùng Thất Sơn, rừng núi hoang vu.
- Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương do cụ Đoàn Minh Huyên sáng lập, chia nhiều đoàn tín đồ đến khai khẩn nhiều nơi:
● Đoàn 1 vào Thất Sơn , bên chân núi Két, do cụ Bùi Văn Thân, tức tăng chủ Bùi Thiền sư và cụ Bùi Văn Tây, tức Đình Tây hướng dẫn, lập nên các trại ruộng Hưng Sơn và Xuân Sơn, sau này hợp thành xã Thới Sơn (Tịnh Biên).
● Đoàn 2 do cụ Quản cơ Trần Văn Thành chỉ huy, đến Láng Linh, vùng đầm lầy khai hoang, lập đồn, tụ nghĩa binh chống Pháp.
● Đoàn 3 do cụ Nguyễn Văn Xuyến (tức đạo Xuyến) đưa tín đồ về Cái Dầu-Bình Long (Châu Phú).
- Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa do cụ Ngô Lợi khởi xướng, cũng đã đưa hàng trăm tín đồ từ khắp nơi về vùng núi Tượng, núi Dài khai hoang, lập làng , giáo huấn tứ ân.Theo Quốc triều chính biên toát yếu của Quốc sử quán triều Nguyễn, năm 1847 tỉnh An Giang, số đinh theo báo cáo của Bộ Hộ có 22.998 người (cả nước Việt Nam khi đó số đinh chỉ có 1.024.388 người).
Đến năm 1930, chấm dứt các chính sách di dân khẩn hoang vào miền Nam . Qua số liệu niên giám thống kê của Pháp năm 1921, dân số 2 tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc cộng lại đông đứng thứ nhất đồng bằng sông Cửu Long.
Ngày 9-5, tại trấn Ba Chúc (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), các ông Phạm Huy Thơ – Phó Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, Nguyễn Chánh Tháo – Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy, Nguyễn Quốc Khánh, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh, Phạm Biên Cương – Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Hồ Việt Hiệp – Bí thư Huyện ủy Tri Tôn đến dự Đại hội Đại biểu đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa lần thứ I, nhiệm kỳ 2010-2015.
Tham dự Đại hội có 120 đại biểu chính thức, đại diện hơn 80.000 thân bằng của 24 Gánh đạo (11 tỉnh, thành phố khu vực phía Nam ). Lãnh đạo các tôn giáo trong tỉnh cũng cử đoàn đại biểu đến dự và tặng hoa chúc mừng Đại hội.
Sau 2 ngày làm việc (8 và 9-5), Đại hội thông qua Hiến chương đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa theo tôn chỉ hành đạo “Hành Tứ Ân – Sống Hiếu nghĩa, Vì đại đoàn kết toàn dân tộc” do Đức Bổn sư Ngô Lợi sáng lập và chính thức khai đạo vào ngày 5 tháng 5 năm Đinh Mão – 1867; với tổ chức 2 cấp đạo là Đạo hội (cấp toàn đạo) và Gánh đạo (cấp cơ sở trực tiếp). Nối tiếp chân truyền của Đức Bổn sư và làm sáng danh đạo cả, mỗi thân bằng cần phải thấm nhuần giáo lý “Học Phật, Tu nhân” cùng tâm niệm các bộ kinh Bà La Ni, Pháp Bửu Trường Sanh, Siêu Độ, Sấm giảng Ngũ Giáo; tuân thủ “Thập nhị lệ sử, răn dạy giữ “Ngũ giới cấm”, “cẩn ngôn, cần hạnh”, khuyên thân bằng hạn chế sát sinh. Mỗi năm có một ngày lễ trọng là mùng 5 tháng 5 Âm lịch; biểu hiện tam hợp gồm: ngày sinh, ngày ngộ đạo và ngày khai sáng đạo của Đức Bổn sư; các ngày lễ, vía khác được tổ chức bình thường theo truyền thống. Đạo hội sẽ theo đúng chơn truyền có phận sự giúp các Gánh hướng dẫn thân bằng, đặt nơi thờ tự, cách thờ tự và làm các nghi lễ của đạo
Đại hội nhất trí đề ra chương trình hoạt động của Đạo hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa nhiệm kỳ 2010-2015, với những nội dung cơ bản tập trung củng cố và kiện toàn tổ chức; sinh hoạt tín ngưỡng và tôn giáo; xây dựng đời sống kinh tế và văn hóa; ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực, cảnh giác với những phần tử xấu, đảm bảo sự phát triển bền vững của Đạo hội. Đại biểu Đại hội cũng đã suy tôn Đạo hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa nhiệm kỳ I (2010-2015), gồm có 22 vị Trưởng gánh đạo và 2 cư sĩ.
Sau 2 ngày làm việc (8 và 9-5), Đại hội thông qua Hiến chương đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa theo tôn chỉ hành đạo “Hành Tứ Ân – Sống Hiếu nghĩa, Vì đại đoàn kết toàn dân tộc” do Đức Bổn sư Ngô Lợi sáng lập và chính thức khai đạo vào ngày 5 tháng 5 năm Đinh Mão – 1867; với tổ chức 2 cấp đạo là Đạo hội (cấp toàn đạo) và Gánh đạo (cấp cơ sở trực tiếp). Nối tiếp chân truyền của Đức Bổn sư và làm sáng danh đạo cả, mỗi thân bằng cần phải thấm nhuần giáo lý “Học Phật, Tu nhân” cùng tâm niệm các bộ kinh Bà La Ni, Pháp Bửu Trường Sanh, Siêu Độ, Sấm giảng Ngũ Giáo; tuân thủ “Thập nhị lệ sử, răn dạy giữ “Ngũ giới cấm”, “cẩn ngôn, cần hạnh”, khuyên thân bằng hạn chế sát sinh. Mỗi năm có một ngày lễ trọng là mùng 5 tháng 5 Âm lịch; biểu hiện tam hợp gồm: ngày sinh, ngày ngộ đạo và ngày khai sáng đạo của Đức Bổn sư; các ngày lễ, vía khác được tổ chức bình thường theo truyền thống. Đạo hội sẽ theo đúng chơn truyền có phận sự giúp các Gánh hướng dẫn thân bằng, đặt nơi thờ tự, cách thờ tự và làm các nghi lễ của đạo
Đại hội nhất trí đề ra chương trình hoạt động của Đạo hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa nhiệm kỳ 2010-2015, với những nội dung cơ bản tập trung củng cố và kiện toàn tổ chức; sinh hoạt tín ngưỡng và tôn giáo; xây dựng đời sống kinh tế và văn hóa; ngăn ngừa những biểu hiện tiêu cực, cảnh giác với những phần tử xấu, đảm bảo sự phát triển bền vững của Đạo hội. Đại biểu Đại hội cũng đã suy tôn Đạo hội Tứ Ân Hiếu Nghĩa nhiệm kỳ I (2010-2015), gồm có 22 vị Trưởng gánh đạo và 2 cư sĩ.
ĐÌNH KHOA