TỔ ĐÌNH TAM BỬU TỰ Ba Chúc - An giang
♠♠๑۩۞۩๑ -KỲ HƯƠNG TỰ- ๑۩۞۩๑♠♠
Trang này được thực hiện bởi các đồng đạo TỨ ÂN HIẾU NGHĨA - TIỀN GIANG

"THẤT SƠN MẦU NHIỆM"


THẤT SƠN MẦU NHIỆM
Dật Sĩ và Nguyễn Văn Hầu


CH. 2
LỊCH SỬ THẤT SƠN
QUA CUỘC NAM TIẾN HOÀN THÀNH


I. Trong Lúc Thất Sơn Còn Thuộc Đất Chân Lạp, Tình Hình Trịnh-Nguyễn Phân Tranh Và Bước Đầu Cuộc Nam Tiến Ra Sao?

Thất Sơn xưa kia nằm sâu trong nội địa Thủy Chân Lạp (nhưng hiện giờ đã thuộc về Nam bộ Việt Nam), và đã từng được thổ dân của nước ấy coi là một lãnh vực vô cùng quan trọng: Người tu hành cho là một chốn danh lam huyền bí, có thể vào đó mà tu luyện dễ thành, nhà chỉ huy quân sự thì coi đó là một vùng hoang địa, lại có thể cứ hiểm trường kỳ mà kinh bang lập quốc; kẻ côn đồ cướp bóc lại cậy vào đó làm chỗ lẫn lút lánh thân, chiêu la đồ đảng. Vì thế, trên bước đường tiến thủ của dân tộc Việt, đất Hà Tiên là một xứ ở biên thùy dị vực (sau lưng dãy Thất Sơn), đã lọt vào nước ta từ năm 1714 mà mãi đến 45 năm sau (1759), mức cuối cùng của cuộc tiến binh vào Nam, Thất Sơn mới thu về đất Việt.

Muốn hiểu được lịch sử quan trọng của vùng sơn lãnh xa xôi ấy, và để hiểu được cả miền đất đai phì nhiêu chung quanh đấy đã sát nhập vào bản đồ nước Việt từ năm nào, và như thế nào, chúng ta hãy ngược dòng lịch sử, xem xét lại tình hình chánh trị của nước ta từ 100 năm trước ngày hoàn thành cuộc Nam tiến.

*

Từ khi có cuộc Nam Bắc phân tranh (Trịnh Nguyễn bảy lần đánh nhau trong quãng 45 năm 1627-1672), làm cho dân gian trong nước luôn luôn đói khổ, cho nên có nhiều người bỏ xứ chạy vào vùng Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hoà) để khai mở ruộng đất làm ăn.

Năm Mậu Tuất (1658), ở Chân Lạp nhân có cuộc tranh chấp ngai vàng trong hoàng tộc, họ sang cầu cứu với nước ta. Chúa Nguyễn bấy giờ là Nguyễn Phúc Tần (Chúa Hiền, 1648-1687) còn phải bận o công việc chống giữ họ Trịnh ở phía Bắc, nhưng vì quyền lợi của dân Việt miền Nam nên cũng chia quân sanh đánh xứ Mỗi-Xuy (nay thuộc tỉnh Biên Hoà), bắt được vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân. Ông Chân xin hàng và hứa sẽ bênh vực người Việt sang làm ăn trong đất họ.

Năm Giáp Dần (1674), lại có cuộc giành ngôi trong hai ngành hoàng phái Chân Lạp: Nặc Ông Đài và Nặc Ông Nộn. Trong khi Nặc Ông Đài xuất ngoại cầu cứu với Xiêm La thì Nặc Ông Nộn sang cầu cứu với chúa Hiền. Chúa Hiền sai Cai cơ đạo Nha Trang là Nguynễ Dương Lâm và Tham mưu Nguyễn Đình Phái đem binh sang đánh Nặc Ông Đài. Binh ta phá được thành Sài Côn (1) rồi tiến thẳng lên vây thành Nam Vinh (Nam Vang: Phnom-Penh). Nặc Ông Đài chống không nỗi quân ta, phải bỏ thành mà chạy (sau chết ở trong rừng), còn con là Nặc Ông Thu ră mặt đầu hàng. Vì Nặc Ông Thu là dòng con trưởng, nên ta cắt cho làm đệ nhứt quốc vương, đóng ở Long Úc, để Nặc Ông Nộn làm đệ nhị quốc vương, đóng ở Sài Côn. Hàng năm, hai vua phải dâng phẩm vật triều cống.

Lúc bấy giờ Chúa Trịnh ở mặt Bắc, sau khi tiến binh vào Nam lần thứ bảy (1672) không thắng được chúa Nguyễn, bèn để Lê Hiến ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ Triệt ở lại làm Đô Đốc trấn thủ Hà Trung, lấy sông Linh Giang (ngày nay là sông Gianh) làm giới hạn rồi rút binh về, không xâm lấn nữa. Vì vậy, miền Nam được rảnh tay, chúa Nguyễn một mặt lo củng cố nội bộ, một mặt lo tiến lần vào Nam.

Từ đó dân ta di cư vào Chân Lạp mỗi ngày một đông, thế lực mỗi ngày một mạnh. Năm Mậu Thìn (1688) nhân có sự làm loạn giữa những người khách trú do Hoàng Tiến cầm đầu (trước vào hàng chúa Nguyễn xin làm dân Việt) chống nhau với Nặc Ông Thu (đệ nh1ưt quốc vương Chân Lạp), Nặc Ông Thu bỏ lệ triều cống, không chịu thần phục nước ta nữa, lại đào hào đấp lũy, lập thế chuẩn bị đối địch.

Chuá Nghĩa là Nguyễn Phúc Trăn (1687-1691) hay tin xua quân vào đánh, giết được Hoàng Tiến và đồng thời vua Chân Lạp cũng khiếp sợ mà xin thần phục như cũ. Những đất dân ta và người Tàu nhập Việt tịch đã khai thác như Lộc Dã, Ba Lân (tức là đất Đồng Nai thuộc Biên Hoà), Mỹ Tho (thuộc Định Tường) được tự do làm ruộng, lập làng mua bán.

Năm Mậu Dần (1698), Quốc Chúa là Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) thấy dân ta làm ăn thịnh vượng và đông đúc, bèn sai ông Nguyễn Hữu Kính làm Kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố ra làm dinh huyện, đặt Trấn Biên dinh (Biên Hoà) và Phiên Trấn dinh (Gia Định) rồi sai quan vào cai trị.

Mùa thu tháng 8 năm Giáp Ngọ (1714) (2), có người khách Quảng Đông tên là Mạc Cửu (3) từ lâu sang khai khẩn đất Mang Khảm (Hà Tiên), làm quan Ốc Nha (như chức Tri phủ) cho nước Chân Lạp, nay thấy nước ấy hèn yếu lại hay chia rẽ, bèn thân hành đến Phú Xuân, dâng biểu xin nạp bảy xã của mình đã khai phá được trong nước Chân Lạp (có cả hòn Phú Quốc), mà quy phục Nam Triều. Chúa Nguyễn ưng chịu và đổi tên đất Mang Khảm lại là Hà Tiên trấn (4), phong cho Mạc Binh giữ trấn Hà Tiên, lại ban ấn triện, mãng mạo và cho người đưa về trọng hậu.

Xét ra từ năm 1672 là năm đã ngưng hẵn cuộc đánh nhau với Trịnh ở Bắc, chúa Nguyễn mới tiến được vào Nam. Nhưng giai đoạn này cũng chỉ chiếm được miền Đông, và phía Tây, thâu phục trấn Hà Tiên mà thôi, còn các vùng rừng sát hoang vu cực nam như Lôi Lạp (ngày nay là Gò Công); Tầm Bôn (ngày nay là Tân An), vùng các cửa sông như Ba Thắc (ngày nay là Sóc Trăng, Bạc Liêu), Trà Vang (ngày nay là Trà Vinh, Bến Tre), và đất Tầm Phong Long (ngày nay là vùng Thất Sơn chạy dọc xuống một phần sa Đéc), vẫn còn thuộc của người Chân Lạp cố thủ. Nhất là vùng Thất Sơn, họ Mạc về sau đã nhiều phen lăm le lấn sang, nhưng gặp phải địa thế hiểm trở và thường có sự chống trả của người Chân Lạp do Nặc Bồn từ phiá Sài Mạt (Cheal Meas) chỉ huy đánh phá hai mặt (Sài Mạt ở phía Bắc và Thất Sơn ở phía Đông Hà Tiên) nên đành phải thôi và chỉ khai thác lần hồi trở xuống miền duyên hải Thủy Chân Lạp (1739).

II. Chính sách “Tàm Thực” Đã Áp Dụng Thời Ấy Như Thế Nào?

Trong khi chúa Nguyễn lo bành trướng thế lực vào Nam thì ở Bắc Hà, chúa Trịnh vì chánh sách tham tàn nên phải bị hãm vào một tình trạng bế tắc: các tầng lớp dân chúng trong xã hội từ bần nông, thương nhân đến sĩ phu đều bất bình, hoặc theo các tôn thất nhà Lê (Lê Duy Chúc, Lê Duy Quý, Lê Duy Mật), hoặc nổi lên dấy nghĩa hô hào diệt Trịnh Phù Lê, như Nguyễn Cừ ở Hải Dương (1739), Vũ Đình Dung ở Sơn Nam, Nguyễn Danh Phương (Quận Hẻo) ở Tuyên Quang (1740-1750), Nguyễn Hữu Cầu (Quận He) ở men bể Đồ Sơn (1743-1751), v.v…

Năm Giáp Tý (1744), chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) thấy thế lực miền Nam đã có cơ vững chắc, (chiếm thêm đất Long Hồ, Vĩnh Long, 1731), và trong vòng 8 năm sau, Long Xuyên (miền Cà Mâu), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (miền Cần Thơ) và Trấn Di (miền Bạc Liêu, Bải Xàu), lại thấy sự suy bại của chúa Trịnh miền Bắc  mỗi ngày một trầm trọng, nên sau sáu năm trị vì, chúa bền xưng vương lấy hiệu là Vũ Vương, rồi phong vương cho các vị tiền bối của chúa là:

  1. Nguyễn Hoàng, Thái Tổ Gia Dũ (Chúa Tiên, 1558-1613).
  2. Nguyễn Phúc Nguyên, Hy Tông Hiếu Văn (Chúa Sãi, 1613-1635).
  3. Nguyễn Phúc Lan, Thần Tông Hiếu Chiêu (Chúa Thượng, 1636-1648).
  4. Nguyễn Phúc Tần, Thái Tông Hiếu Triết (Chúa Hiền, 1648-1687).
  5. Nguyễn Phúc Trăn, Anh Tông Hiếu Nghĩa (Chúa Nghĩa, 1687-1691).
  6. Nguyễn Phúc Chu, Hiển Tông Hiếu Minh (Quốc Chúa, 1691-1725).
  7. Nguyễn Phúc Chú, Túc Tông Hiếu Ninh (Định Quốc Công, 1725-1738).

Với chí làm việc lớn, ngài sắp đạt phẩm trật cho các quan văn võ. Quan chia làm sáu bộ, bộ về văn học gọi là Hàn Lâm. Đạo về vệ binh thì đặt là Võ Lâm.

Nước chia ra làm 12 dinh:

  1. Chính dinh (Phú Xuân)
  2. Cựu dinh (Ái Tử)
  3. Quảng Bình dinh
  4. Vũ Xá dinh
  5. Bố Chính dinh
  6. Quảng Nam dinh
  7. Phú Yên dinh                ( Đất thu được của nước Chiêm Thành.)
  8. Bình Khang dinh            ( Đất thu được của nước Chiêm Thành.)
  9. Bình Thuận dinh            ( Đất thu được của nước Chiêm Thành.)
  10. Trấn Biên dinh             ( Đất thu được của nước Chân Lạp.)
  11. Phiên Trấn dinh           ( Đất thu được của nước Chân Lạp.)
  12. Long Hồ dinh              ( Đất thu được của nước Chân Lạp.)

Dinh nào cũng đặt quan Trấn Thủ cai trị, duy có đất Hà Tiên thì đặt làm trấn cho Mạc Thiên Tích làm quan Đô Đốc cai trị như trước.

Lúc này vua Chân Lạp là Nặc-Ông-Tha (Sothea) nhờ Vũ Vương ủng hộ mà được làm vua ở La Bích (Lovek, 1736-1748) nhưng sau đó, Nặc Ông Thâm (Thomea), chú của Tha, thua chạu trốn sang Xiêm từ năm 1715, lại trở về đánh đuổi Nặc Ông Tha và cướp lấy ngôi (1748). Song chẳng bao lâu, Thâm mất.

Mấy người con của Thâm tranh ngôi nổi loạn, có người sang cầu cứu với nước ta. Vũ Vương sai Nguyễn Hữu Doãn làm Thống suất, đem binh đánh dẹp và lập Nặc Ông Tha làm vua trở lại. Được vài tháng, Tha bị con của Thâm là Nặc Nguyên (Ang-nguôn) viện binh Xiêm về đánh (1750). Tha bị thua, phải bỏ chạy sang Gia Định, cầu cứu với nước ta, nhưng việc chưa thành thì Tha đã chết ở đấy.

Nặc Nguyên từ khi tranh được ngôi vua thường đem binh lấn hiếp người Côn-Man là tàn tích dân Chiêm Thành, sang trú ngụ ở Chân Lạp từ năm 1693. Mặt Bắc lại thông sứ với chúa Trịnh Doanh (1740-1767) để lập mưu đánh Vũ Vương mà giành lại đất Thủy Chân Lạp.
Chúa Nguyễn biết tình thế ấy, nên mùa Đông năm Qúy Dậu (1753) sai ông Thiện Chính Hầu (khuyết tên) làm Thống suất và ông Nguyễn Cư Trinh làm Tham mưu, điều khiển tướng sĩ năm dinh (5), đánh Nặc Nguyên. Quân tiến đến Ngưu Chữ (Bến Nghé), lập dinh trại, kén sĩ tốt, trừ bị rất nhiều để làm kế khai cương thác địa.

Đến mùa hạ năm Giáp Tuất (1754), ông Thiện Chính và ông Cư Trinh chia quân tiến lên. Quân ta trẩy đến đâu, giặc đều quy phục; đi qua đất Tần Lê (?), ra đến sống Lớn (có lẽ là sông Vàm Cỏ) cùng hội quân với ông Thiện Chính ở đồn Lô Yêm (?). Từ đó nhất tề tiến binh. Những phủ Lôi Lạp (Soi Rạp: Gò Công), Tầm Bôn (Tân An), Cầu Nam (Ba Nam), Nam Vinh đều hàng cả. Quân ta chiêu phục được người Côn-Man theo về rất đông để làm thanh thế.

Nặc Nguyên bị mất cả thành trì phải chạy trốn với một ít tàn binh xuống vùng Thất Sơn, nhưng sau sợ họ Mạc và binh triều biết tin đánh úp hai mặt, lại bỏ chạy đến gần Vĩnh Long; gặp mùa nước nổi, quân ta phải ngưng đánh đuổi.

Mùa xuân năm Ất Hợi (1755), ông Thiện Chính từ Nam Vinh rút binh về đồn Mỹ Tho, dẫn theo hơn một vạn người Côn-Man mới chiêu phục. Khi đến đất Vô-Tà-Ân (vùng Đồng Tháp Mười), bị quân của Nặc Nguyên bất thình lình ồ ra đánh úp, chận bắt lại người Côn Man. Quân của ông Thiện Chính đi hậu tập bị mắc bụi rậm, vũng lầy, không tiếp viện kịp. Ông Cư Trinh mới đem binh của ông đến cứu được lối năm ngàn người, vừa trai vừa gái rồi đem về trú ở núi Bà Đinh (bây giờ là núi Bà Đen, Tây Ninh).

Triều đình bắt tội ông Thiện Chính về việc để thất cơ binh và làm mất dân mới về hàng, giáng ông từ chức Thống suất xuống làm Cai đội, cho ông Trương Phúc Du vào thay thế.
Trương Phúc Du hiệp cùng Nguyễn Cư Trinh cho người Côn-Man đi tiên phong đến đánh hai phủ Cầu Nam và Nam Vinh.

Nặc Nguyên trận này thua to, binh tướng tan rã hết, cùng đường phải chạy sang Hà Tiên, khẩn thiết yêu cầu Mạc Thiên Tích, nhờ xin hộ với chúa Nguyễn, dâng đất hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp để chuộc tội và bổ vào lệ triều cống đã bỏ ba năm về trước, cùng đẻ xin cho được về nước làm vua lại.

Vũ Vương không cho, vì giận Nặc Nguyên đã nhiều lần phản trắc. Ông Nguyễn Cư Trinh thấy vậy dâng sớ tâu rằng:

“Từ xưa, sở dĩ dùng đến binh, chẳng qua là muốn giết đứa cừ khôi, mở mang bờ cõi mà thôi. Nay Nặc Nguyên đã hối quá, biết nộp đất, hiến của. Nếu không cho nó hàng thì nó sẽ chạy trốn; mà từ Gia Định đến La Bích, đường xá xa xôi, không tiện đuổi đánh. Vậy muốn mở mang bờ cõi, chi bằng hãy lấy hai phủ ấy, giữ chặt phía sau cho hai dinh (Phiên Trấn và Trấn Biên). Năm xưa, đi mở phủ Gia Định, trước phải mở phủ Hưng Phúc (Biên Hoà), rồi mở đến phủ Lộc Dã (Đồng Nai) để quân dân đoàn tụ, rồi sau mới mở đất Sài-Côn. Đó là kế “tằm ăn dâu” đó.

“Nay từ Hưng Phúc đến Sài Côn đường đi chỉ hai ngày, mà dân cư còn chưa yên tập, quân giữ cũng có đứa chưa khoẻ; phương chi từ Sài Côn đến Tầm Bôn, đường đi trong sáu ngày, thú binh trú phòng thực sự chưa đủ.

“Thần thấy người Côn Man đánh đường bộ rất tài, quân Chân Lạp cũng đã chột dạ. Nếu cho người Côn Man ở đấy, sai nó ngăn chống, cũng là kế hay. Vậy nên xin cho nước Chân Lạp chuộc tội, lấy hai phủ ấy, cho thần xem xét hình thế, đạt lũy đóng quân, cấp điền sản cho quân dân, chia địa giới, lấy châu Định Viễn để thâu cả toàn bức.”

Vũ Vương thấy lời tâu hữu lý nên thuận theo nhận lấy hai phủ (1756) và cho Nặc Nguyên về nước.

Từ đây, với kế hoạch “tàm thực”, ông Nguyễn Cư Trinh cho người Côn Man mở đất làm ruộng và người Việt lần lần lan ra nhiều nơi. Hồi này, hầu hết đất Thủy Chân Lạp đã rải rác có dấu chân người Việt, duy có đất Tầm Phong Long vì có vị trí then chốt của Thất Sơn, dân ta chưa tiến lên được.

III. Mức Cuối Cùng Của Cuộc Nam Tiến Thất Sơn Mới Thu Về Đất Việt.

Năm Đinh Sửu (1757), Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận (Neac Ang Nhuận) làm Giám quốc xin dâng đất Trà Vang và Ba Thắc để cầu được chúa Vũ Vương phong cho làm vua. Song liền sau đó, Nặc Nhuận bị con rễ là Nặc Hinh nổi loạn giết đi mà cướp lấy ngôi vua (1758).

Bấy giờ con của Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên cầu cứu với Mạc Thiên Tích. Thiên Tích dâng sớ tâu bày các việc của nước Chân Lạp vừa xảy ra và đề nghị nên ủng hộ cho Nặc Tôn được về nước làm vua, kế vị cho cha. Vũ Vương bằng lòng và sai tướng sĩ ngũ dinh tại Gia Định hợp với Thiên Tích mà lo việc ấy. Trương Phúc Du vâng lệnh đem binh đánh dẹp. Nặc Hinh thua chạy và sau bị kẻ thuộc hạ giết. Hoàng tử Nặc Non cùng một ít họ hàng nhà vua bôn đào sang Xiêm.

Mạc Thiên Tích đưa Nặc Tôn về nước rồi lập lên làm vua và được Vũ Vương sắc phong cho chức Phiên Vương.

Để đền lại cái ân rất trọng hậu của Vũ Vương, Nặc Tôn bèn dâng đất Tầm Phong Long (1759), trong ấy có cả vùng Thất Sơn quan trọng mà ngót một trăm năm (1658-1759), từ khi bắt đầu có cuộc đụng chạm với người Việt, lúc nào người Chân Lạp cũng: hoặc dùng làm nơi trú ẩn, hoạc nương vào địa thế hiểm trở mà tiến binh. Ngoài ra, Nặc Tôn còn cắt thêm năm phủ: Hương Úc (Kompong-Som), Cần Bột (Kampot), Sài Mạc (Cheal Meas), Chưng Rừm, Linh Quýnh (vùng duyên hải từ  Sré Ambel đến Peam) để riêng tạ ơn Thiên Tích, Mạc Thiên Tích đều đem dâng về cho Vũ Vương. Vũ Vương cho sáp nhập vào trấn Hà Tiên (6).

Muốn ngăn ngừa sự khuấy nhiễu của người Xiêm La và Chân Lạp, ta lại đặt ra nhiều đồn lũy để cố thủ.
Về đường bộ, miền đông và miền trung: một đạo (binh Côn-Man) đóng ở Tây Ninh và một đạo đóng ở Hồng Ngự (Châu Đốc), liên lạc nhau do đường tắt vùng biên giới (Đồng Tháp Mười, Soài Riêng) (7). Miền tây: một đạo đóng ở Tịnh Biên để án ngữ Thất Sơn và liên lạc với hai đồn binh Giang Thành và An Giang.
Về đường thủy, lập đồn ở hai bên bờ Cửu Long Giang, gần nẻo biên thùy:

  1. Tân Châu đạo ở Tiền Giang (quân đóng tại Cù Lao Giêng).
  2. Châu Đốc đạo ở Hậu Giang (quân đóng ở bến An Giang, liên lạc với Tịnh Biên để phòng ngự Thất Sơn).
  3. Đông Khẩu đạo ở Sa Đéc (làm hậu thuẫn cho hai đạo tiền phong: Tân Châu và Châu Đốc).

Thế là trọn một thế kỷ, đất Thủy Chân Lạp hoàn toàn thuôc về nước Việt Nam ta, và dãy Thất Sơn trùng điệp hiên ngang nằm dọc sau sông Cửu Long kia đến mức sau cùng của cuộc Nam tiến mới “chịu” nhập vào với lũy tre xanh ngàn đời, để tô đấp thêm cho giang sơn thanh tú của con Hồng cháu Lạc.

IV. Thất Sơn Với Con Mắt Nhà Địa Lý của Họ Mạc.

Theo như nhiều người đã biết, cái ếm ở Bài Bài, thuộc làng Nhơn Hưng, quận Tịnh Biên (Châu Đốc) do ông Phạm Thái Chung, tục gọi ông Đạo Lập -một đệ tử được phép chơn truyền của Đức Phật Thầy Tây An- khám phá ra được ở quanh miền rừng núi linh thiêng này từ xưa, nhưng ít ai để ý xem tại sao mà có, hoặc do ai làm ra với mục đích gì!

Căn cứ vào những chữ còn sót lại trên mặt cái ếm này mà xét (vì tấm đá đã bị mòn chữ đi nhiều): Hoàng Thanh, Càn Long ngũ thất niên, trọng thu, cốc đán, 皇 清 乾 隆 五 七 年 仲 秋 穀旦thì biết được cái ếm này chôn vào mùa thu, tháng 8, năm Càn Long nhà Thanh thứ 57, tức là năm 1792 dương lịch. Lúc này chính là lúc con cháu Mạc Cửu còn trọng nhậm tại Hà Tiên (Mạc Tử sanh, Mạc Tử Thiêm). Trừ bọn họ ra, vùng này thuở đó không còn có đám người Minh Hương nào khác nữa. Như thế, ta có thể nói cái ếm này của bọn họ Mạc, với con mắt nhà địa lý, hoặc vì thấy vượng khí của vùng sơn lãnh linh thiêng, hoặc bởi biết có long huyệt, sợ đất Việt sẽ phát sanh thánh chúa sau này nên họ đã ếm trấn ngay từ sau khi cuộc Nam tiến của nước ta được hoàn thành (8).

tại sao họ Mạc đã xin làm dân Việt, đã làm quan cho nước ta mà còn sợ vượng khí của non sông anh tú? Điều đó rất dễ hiểu. Xem hai câu thơ thúc kết trong bài “Lư Khê Nhàn Điếu” của Mạc Thiên Tích:

Hải thượng tà đầu thời độc tiếu,
Di dân thiên ngoại nhất ngư ông (9).

Ta cũng đủ biết cái chí khí của họ Mạc bao giờ cũng nuôi mộng bá vương, chờ cơ vùng vẫy. Hơn nữa, “Mạc Thị Sử” còn cho ta biết thêm rằng từ khi chúa Vũ Vương lên ngôi (1744) thì sự chia dinh định phủ được sắp đặt như thế này: Từ Phú Xuân đến Bình Thuận là 9 dinh; còn phần đất mới lấy được của Chân Lạp thì từ Trấn Biên đến Long Hồ là 3 dinh. Duy đất Hà Tiên vẫn để y làm trấn, họ Mạc được ba năm một lần triều cống như lệ của nước chư hầu. Như thế, tuy chưa được cái danh nghĩa cô quả, chứ thực đã có cái tư cách bá vương. Lại như nay tại Hà Tiên, trên Bình San còn có nền tế sơn xuyên, nền tế xã tắc, thì đủ biết họ Mạc bị thúc đẩy đến chỗ không muốn cho Việt Nam có Minh quân Thánh chúa ra đời tại vùng Thất Sơn (điều mà chúng ta cho là việc dĩ nhiên, không chi làm lạ).

Hơn nữa, là sau ngày xuống cái ếm này lối 60 năm, vào khoảng 1849-1856, Đức Phật Thầy Tây An đã cho Đức Cố Quản Thành trồng bốn cây thẻ quanh vùng Thất Sơn. Ý chừng Ngài đã biết rõ sự trấn ếm của họ Mạc nên cắm thẻ để trấn áp cho ếm mất thiêng đi, hoặc vì sự che chở cho anh linh vượng khí hay long huyệt của nước Việ ta mà Ngài có phận sự phải làm! Hiện giờ, ếm còn thấy một cây (10) và thẻ chỉ còn một vài di tích (nay được cất dinh thờ ở Láng Linh (Châu Đốc) và người đời gọi là dinh ông Thẻ). Âu cũng là một dấu tích kỳ bí, để cho người đời còn có thể phăng ra nguồn gốc vậy.

Chú Thích:

(1)         Sài Côn, chữ Cao Miên là Prei-Kor (rừng bông gạo). Khi người Việt vào ở  thì người Cao Miên gọi là  Preinokor (rừng kinh đô). Do Sài Côn mà có tên Sài Gòn ngày nay.
(2)         Việt Nam Sử Lược chép là năm Mậu Tý (1708) nhưng xét theo Mạc Thị Sử (Nam Phong số 143, 1929) thì năm 1714 có phần đúng hơn.
(3)         Mạc Cửu không thần phục nhà Thanh, trốn sang đất Cao Miên và đến mở đất Mang Khảm trước năm 1674, đến năm 1714 mới thần phục nước ta.
(4)         Hai chữ tên trấn Hà Tiên tương truyền là nhân một đêm thanh vắng, người ta thấy trên sông ở đấy (tức Đông Hồ và cưả thông ra biển Kim Dữ bây giờ) có các vị tiên lữ hiện xuống chơi, bày ra cuộc du hồ, nên mới đặt là Hà Tiên, lấy nghĩa là sông có tiên hiện xuống chơi.
(5)         Thiện Chính Hầu thống lĩnh binh quyền hiệp cùng Nghi Biểu Hầu Nguyễn Cư Trinh làm Tham mưu điều khiển 5 dinh là Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ, đồn binh tại Bến Nghé (theo sách Gia Định Thông Chí).
(6)         Năm phủ này đến đời vua Tự Đức, năm 1848, đã giao trả lại cho nước Cao Miên.
(7)         Hiện giờ còn có rất nhiều di tích người Chàm ở Hồng Ngự và Tây Ninh là do cuộc đồn binh này hồi xưa mà ta đã dùng người Côn Man đóng ở đó.
(8)         Sự trấn ếm và muốn đè nén không cho dân Việt có được Thánh nhân ra đời đối với người Tàu là thường. Xem như ngày xưa, tương truyền có Rồng ở lưu vực Hồng Hà, thời Hồng Thủy. Nó theo dõi đường nam tiến để yểm trợ dân Việt. Thầy địa lý của Tàu là Cao Biền đã theo dấu đến xứ Việt Nam, định trấn ếm và giết cho hết, không để cho nó hun đúc tinh thần dân tộc Việt. Nào dè Rồng thiêng đã ẩn mình kịp xuống tại Vịnh Hạ Long.
(9)         Dịch nghĩa:
Trên biển riêng cười cơn xế bóng –
Đem dân ngoài cõi một ngư ông.
(10)     Trường hợp như cây ếm trên đây không phải là một. Tương truyền rằng Đức Bổn Sư còn lấy được ở núi Nước một cái ếm khác, trên ếm có trồng ba cây đa để che lấp đi. Khi Đức Bổn Sư phá được ếm ấy thì những người Tàu ở Hà Tiên rất oán ghét Ngài. Họ mướn người theo dõi để ám hại.








CH. 3
SỰ QUAN TRỌNG CỦA THẤT SƠN


I. Quan Trọng Về Mặt Chiến Lược.

Nằm trong khu tam giác Tịnh Biên - Nhà Bàng - Tri Tôn, vùng Thất Sơn choán một địa thế bề dài lối 30 ngàn thước, bề ngang độ 17 ngàn thước, (lối 1/7 diện tích tỉnh Châu Đốc) và trở thành một pháo đài thiên nhiên vô cùng kiên cố bên cạnh Miên Quốc và Thái Lan, án ngữ cả vùng bbò biển Hà Tiên, Rạch Giá.

Thật vậy, từ cổ chí kim, từ Âu sang Á không một chiến lược gia nào có thể phủ nhận cái phần ưu thắng về tính cách địa hiểm của núi non trong việc điều binh khiển tướng.
Vua Lê Thái Tổ, nhà anh hùng áo vải ở núi Lam Sơn, trong mười năm kháng chiến với quân Minh đã phải ba lần rút về núi Chí Linh để cố thủ.
Ông Hoàng Hoa Thám tức Đề Thám, trong hai chục năm chống Pháp đã nổi danh là "Con hùm Yên Thế" vì chiếm được Yên Thế sơn làm nơi hiểm cứ.
Nguyễn Hoàng cũng đã hiểu rõ sự quan trọng của núi non về mặt chiến lược nên trước khi mất có dặn người con thứ sáu là Nguyễn Phúc Nguyên rằng: "Đất Thuận, Quảng này bên Bắc thì có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, bên Nam thì có núi Hải Vân và núi Bí Sơn thật là một nơi trời để cho người anh hùng dụng võ...".

Ngày nay, trong thế cuộc nước nhà, nếu ai chiếm được vùng Thất Sơn thì Người Ấy sau này sẽ nắm phần ưu thắng trong tay, chẳng khác vua Đinh Tiên Hoàng (Vạn Thắng Vương) đã dẹp loạn sứ quân, giữ nên nghiệp cả nhờ giữ được động Hoa Lư, hay Trương Lương đã rực rỡ thành công nhờ biết lui về Ba Thục để lập chiến khu (chiến lược này đã làm cho Tưởng Giới Thạch phải thán phục và học đòi bằng cách rút về Trùng Khánh để trường kỳ kháng Nhựt).
Thật vậy, một khi ta đàng hoàng chiếm cứ Thất Sơn làm nơi dụng võ mà địch quân nào dám bén mảng đến vùng thung lũng của vị trí này thì chắc chắn họ sẽ hoàn toàn thảm bại còn hơn Pháp quân ở Điện Biên Phủ.

II. Quan Trọng Về Mặt Kinh Tế.

Đã quan trọng cho việc quốc phòng (về mặt chiến lược như đã nói ở trên), vùng Thất Sơn lại còn quan trọng cho dân sinh về mặt kinh tế, vì nó bảo trợ và chi phối những vùng đồng ruộng phì nhiêu bao la bát ngát (Đồng Tháp Mười và Đồng Cà Mau) được thấm nhuần bởi con sông Cửu Long và những sông ngòi kinh rạch chi chít khắp nơi, rất tiện cho việc trồng trọt cấy cày và giao thông vận tải.
Dưới đây xin lược kê vài nguồn lợi phong phú của vùng này về nông sản, chăn nuôi, lâm sản, khoáng sản, giang sản và hải sản:

a. Về nông sản, người ta lại còn chia ra nông sản chánh và nông sản phụ.
Nông sản chánh gồm có lúa và dừa.

Lúa (món ăn căn bản của người Việt Nam và là sản phẩm quan trọng nhất) chiếm tám chục phần trăm (80%) các nguồn lợi. Diện tích trồng trọt ở Nam Việt được trên ba mươi ngàn mẫu tây và số sản xuất hàng năm trên 4 triệu tấn. Về phương diện lúa gạo, Việt Nam ta đứng vào hạng nhứt nhì ở Đông Nam Á. Sở dĩ được vậy là nhờ các vùng đồng ruộng mênh mông thuộc châu thổ sông Cửu Long và đồng Cà Mau. Bởi lẽ đó, người ta gọi  mấy vùng này là vựa lúa của nước Việt Nam.

Dừa (một loại cây kỹ nghệ rất hữu ích) cũng được trồng trọt rất nhiều trong các vùng này, nhứt là ở Mỹ Tho và Bến Tre.

Về nông sản phụ thì lại có cây thực phẫm và cây kỹ nghệ:

1. Ngoài lúa ra, ở vùng này người ta còn trồng nhiều thứ cây thực phẫm khác như: bắp, khoai, đậu, mè, mì, sắn, tiêu, mía, trái cây (cam, quýt, ổi, chuối,...)
2. Cây kỹ nghệ cũng có nhiều để cung cấp nguyên liệu cho các xưởng máy như: bông vải, gai, thuốc lá, đậu phọng.

b. Về sự chăn nuôi tuy còn kém khuyết nhưng gà, vịt, heo, dê, trâu, bò cũng có thể gọi là đủ dùng.

c. Về lâm sản, vùng Thất Sơn có rất nhiều gỗ quý như: cà chất, câm xe, cẩm lai, giá tị, trắc, sến, nu, sao,... Những rừng rú điệp điệp trùng trùng lại còn cung cấp vô số củ nâu, dây trại, dây mây và vô số dược liệu như: đầu khấu, sa nhơn, chỉ xác, đổ trọng,...
Ở vùng đồng bằng và các nơi ven biển như: Hà Tiên, Rạch Giá, Bặc Liêu, Cà Mau lại còn những kho vô tận dừa lá, chưn hầu, bần, tràm, đước, vẹt, lác, đưng... dùng vào việc xây dựng nhà cửa cho dân cư hoặc để cắt củi hầm than bán lại cho dân gian và ngoại bang tiêu thụ.

d. Về khoáng sản, nếu miền Bắc Việt có nhiều mối lợi vô biên với những mỏ than, vàng, sắt, kẻm, bạc, thiếc, đồng, chì... thì, ngoài thứ đá làm nhà ở Châu Đốc, Long Xuyên và đá làm vôi ở Hà Tiên, ai dám bảo Miền Nam, nhất là vùng Thất Sơn, lại chẳng có nhiều của quý sẽ tìm được sau này? Đức Huỳnh Giáo Chủ há không có nói: "Trên bảy núi có nhiều báu lạ"? Rất đổi núi Ba Thê ở Long Xuyên (gần Thất Sơn) mà còn có vàng thay, huống gì Thất Sơn!

e. Về giang sản thì bất tất phải nói nhiều, vì ai chẳng biết miền Tây Nam Việt chi chít sông ngòi kinh rạch có vô số cá tôm, dư sức nuôi sống mấy triệu gia đình quanh năm sống bằng lọp, câu, chài, lưới và dư sức cung phụng cá mòi, cá linh, cá cơm cho kỹ nghệ nước mắm.

g. Về hải sản, tưởng không cần phải nói nhiều về sự quan trọng của nghề đánh cá ở vùng duyên hải Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau và nghề làm muối ở Bặc Liêu.
Một ký giả ngoại quốc nói rằng tỉnh Bặc Liêu có bốn kho vàng vô tận là: vàng vàng (lúa), vàng xanh (cây làm củi), vàng đen (than củi) và vàng xám (muối).

Chính các phú nguyên dồi dào nói trên đã làm cho một số người thèm thuồng tiếc uổng, cứ cố bám chặt như con tôm đeo dính miếng dừa, cho đến khi nào bị hất vào xuồng câu mới đành chịu nhả. Đức Huỳnh Giáo Chủ trong lúc đi khuyến nông tại Bặc Liêu (năm 1945) có điểm một nụ cười mỉa mai kín đáo khi đọc đến câu:

Chỉ có xứ Nam Kỳ béo bở,
Cơ hội này bỏ dở sao xong!
  
III. Quan Trọng Về Mặt Địa Lý.

Bàn về địa lý (phong thủy) ta nên đặc biệt quan tâm đến những trọng điểm này:

Thất Sơn nằm trên địa phận tỉnh Châu Đốc và sông Cửu Long cũng chảy qua  tỉnh này.
Mà Thất Sơn tức là Bửu Sơn hay Bảo Sơn (1) thì qúy báu vô ngần, hiển linh tột bực: Nơi đây đã có nhiều vị tu hành chứng quả Phật, Tiên, Thần, Thánh. Chính phái Bửu Sơn Kỳ Hương đã phát hiện tại vùng này.

Còn Cửu Long tức là Bửu Giang hay Bảo Giang. Con sông này được coi như là con sống quý báu, vì nó là con sống lớn nhứt và dài nhứt trên hoàn cầu (hơn 4,500 cây số ngàn), phát nguyên từ bên Tây Tạng, nơi mọc lên dãy núi Hy Mã Lạp Sơn cao nhất hoàn cầu (8,840th) và là nơi Đức Phật Thích Ca đã đắc quả chánh đẳng chánh giác. Con sông này chảy sang Việt Nam, qua Nam Việt (nhứt là tỉnh Châu Đốc) rồi tuôn ra biển Đại Thanh với chín cửa biển (cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lại, cửa Hàm Luông, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu, cửa Định An, cửa Bách Xắc, cửa Tranh Đề), vừa kết tụ ngươn khí, vừa phát hiện đủ thứ địa hình.

Dòm kỹ bản đồ Nam Việt thì ta thấy cù lao Kết (từ Vàm Nao đến Nam Vang) giống hình một con qui, mỏ day về Vàm Nao. Mà "con qui" ấy đã nằm giữa Tiền Giang và Hậu Giang lại ở vào khoảng giữa (tức Trung Ương) Thất Sơn và Cửu Long. Theo nguyên lý nam thất nữ cửu thì Thất Sơn thuộc Dương, Cửu Long thuộc Âm.

Địa cuộc có âm dương tương hội thế ấy tất nhiên là địa linh. Mà địa linh tất sanh nhân kiệt. Sông thế ấy, núi thế kia phải đào tạo được những trang hào kiệt phi thường, (Giang sơn chung tú phi thường). Câu:

Khí thiêng liêng sông núi nhiệm mầu,
Un đúc giống anh hùng vang bốn bể

của Đức Huỳnh Giáo Chủ dường như vừa xác nhận giá trị của khoa học địa lý lại vừa hé màn bí mật.

Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm lại nói rõ về nơi xuất hiện của vị anh hùng dân tộc tương lai -một vị Thánh Nhơn- trong những câu sấm:

Bảo Giang Thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
Hoặc
Bảo Giang Thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành

Dường như muốn cho người đời sau có thể tìm hiểu đâu là "Thánh nhơn hương" (quê hương của vị Thánh nhơn) nên cụ Trạng lại nói thêm:

Bắc hữu Kim Thành tráng (2)
Nam tạc Ngọc Bích thành (3)
Hoà thôn đa khuyển phệ (4)
Mục giả, dục nhơn canh (5)

Về mặt địa lý, ông A.T.Y. trong quyển "CON ĐƯỜNG NÀO?" có dựa theo tài liệu quyển HUYỀN DIỆU THIÊN THƠ mà ông đã may mắn được một dị nhơn tặng cho ở vùng Thất Sơn (mong rằng đây là sự thật!) để nói về sự linh thiêng mầu nhiệm của miền Nam nước Việt như vầy:

"Khoa địa lý dạy rằng: hễ một dòng sống bắt nguồn từ nơi đất địa hiển linh, núi cao ngàn năm không người ở, rừng rậm ngàn năm không ai tới lui, phóng lượn sóng nghêng ngang ngàn thu không cạn, thì con sông ấy sẽ kết tụ nơi huyệt "Long đảnh", một địa huyệt rất linh hiển, phì nhiêu về vật chất, cao siêu tột bực về tinh thần. Ngọn Cửu Long Giang là một dòng Bảo giang oanh liệt, oai nghiêm, vừa tạo thành nên vóc vạc hoàn toàn lối 100 năm nay. Kết liên với các núi, Cửu Long giang xuất hiện ra 12 huyệt huyền diệu, chấm đậm nét hùng vĩ trên địa cầu này.

Bắt đầu khởi kết tụ ngươn khí âm dương xây nên địa huyệt thứ nhất tại Thất Sơn (Châu Đốc). Chỗ ấy ba huyệt thiên tiên hiệp lại làm Nê hườn cung, xuất hiện đúng ngày linh hiển tam huê tụ đảnh, mùi hương lạ kỳ bí mật bay ra từ núi Sam đến núi Tượng. Chỗ ấy là cân não, cốt tủy của Cửu Long; tên nó được hưởng ứng theo luồng điện thiên nhiên, oai nghiêm, từ bi, hùng vĩ đời sau gọi là Kim Thành huyệt. Đó là huyệt Dương đã hiện, Cửu Long kết lần với hai cốt núi âm phong cô độc, liên hiệp thành cặp mắt Hà Tiên và Phú Quốc là Thủy Trung huyệt. Tây Ninh, núi Điện Bà là Huỳnh Môn huyệt, hai đảnh núi ấy thuộc về Âm kết tụ ngươn khí tại Trung Ương tạo nên Ấn Đường huyệt (Dương) để khai mở luồng điển quang cho các huyệt kia vừa ngưng tại lối miệt Long Xuyên, Bình Mỹ (một dãy cù lao lớn chạy dài từ Bình Mỹ xuống gần đến Cần Thơ).

Từ Kim Thành huyệt phóng xuống mũi Cà Mau và núi Kỳ Vân, hai huyệt dương nữa, một bên thì thành sống mũi Cửu Long chấm đến Cà Mau (tức là Lâm Huyền huyệt) một bên thì hàm rồng tại Kỳ Vân (tức là huyệt Bích Ngọc). Đồng cân với hai huyệt âm (Thủy Trung huyệt và Huỳnh Môn huyệt) hiện ra một huyệt thứ sáu (Bình Nam huyệt) tại núi Côn Nôn, là chót lưỡi của Cửu Long.

Sáu huyệt âm dương vừa kết tụ ngươn khí thì tại Trung Ương huyệt, yết hầu Cửu Long vừa khai mở gần Cần Thơ bây giờ, gọi là Trung Ương Cửu Long huyệt. Lần lần ba cửa mở ra: Cửa Đại, cửa Tiểu,... vừa thành tựu (năm Nhâm Thìn 1892) khiến cho ba nguồn thủy dựng tại Bình nam châu chuyển động (lưỡi Cửu Long) làm cho các miền ở chánh cửa khẩu phải bị nạn lụt (Vàm Cỏ, Gò Công, Bến Tre và các cù lao nhỏ v.v...) ba ngày ba đêm. Đó là bảy huyệt linh thiêng chánh gốc của xứ Việt Nam mới ngưng kết được lối 100 năm nay. Đứng giữa hoàn cầu, sự linh thiêng tân tạo là đầu Cửu Long giang, một nguồn Bảo giang thiên cơ đã định phải chói rạng sự huyền diệu nhứt hạng khắp bốn bể năm châu. Vì địa linh ấy mới sanh nhơn kiệt, các vị thánh tổ kim thời hễ thuộc âm mạng thì phải xuất hiện (chứ không phải giáng sanh) dạy đời trong ba huyệt Âm (Thủy Trung huyệt, Huỳnh Môn huyệt và Bình Nam huyệt), còn thuộc Dương thì phải xuất hiện ở Thất Sơn, Kỳ Vân và Cà Mau (Kim Thành huyệt, Bích Ngọc huyệt và Lâm Huyền huyệt)."

Đọc đến đây, chắc sẽ có người cho rằng khoa địa lý là một môn học gồm ytoàn những sự mê tín dị đoan, vu vơ huyễn hoặc. Đối với những bạn đọc ấy, chúng tôi xin thưa: Nếu quả thật sự xét đoán như thế là đúng thì cụ Trạng Trình (Trạng Nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, tước Trình Quốc Công) và ông Tả Ao (tức Nguyễn Đức Huyên, ngườ làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Nghệ An) đã chẳng được nổi tiếng và lưu danh vì giỏi khoa địa lý. Và nếu vậy thì làm gì đời Hán, Trương Tử Phòng đã phải soạn ra sách "Bình xa Ngọc Xích"; đời Tấn Quách Phúc phải soạn ra sách "Táng Kinh"; đời Tông Trương Tử Vi phải soạn ra sách "Ngọc Túy Chơn Kinh"; Trần Đoàn phải soạn sách "Kim Toả Bí Quyết"; đời Nguyên, Lưu Bỉnh Trung phải soạn sách "Kim Đẩu Quyết Táng Pháp"?

Nơi đây, chúng tôi tưởng cũng nên nói thêm đôi điều về khoa địa lý (hay phong thủy). Khoa này thường được áp dụng trong việc lập thành quách, cất đình chùa, hoặc làm nhà cửa, để mồ mả. Đất làm nhà cửa gọi là dương cơ, còn đất để mồ mả thì gọi là âm phần. Về dương cơ, người ta ít khi kén chọn chỗ đất, mà chỉ lấy hướng cho hạp. Còn về âm phần thì người ta thường nhờ thầy địa lý đi tìm một cách cẩn thận.

Theo phép địa lý thì trước hết phải phân biệt hình đất làm năm loại chánh là: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Nguời ta còn tùy theo cuộc đất giống hình vật gì mà phân biệt các kiểu đất qúy như: lục long tranh châu, phụng hoàng ẩm thủy, tê ngưu vọng nguyệt, quần tiên hội ẩm, hổ trục quần dương, v.v... Cũng có những kiểu đất hình con rùa, con cá, con voi, con ngựa, cái cờ, cái ấn, ngòi bút, thanh gươm, v.v... Khi đi tìm đất thì trước phải tìm tổ sơn, rồi dò long mạch theo thế đất đặng tìm huyệt. Hễ là huyệt trường thì tất phải có tiền ám hậu chẫm, tả long hữu hổ; mặt tiền phải có minh đường thủy tụ hội, mặt hậu phải có long mạch thu thúc, mặt ngoại phải có bàng sa triều củng. Cuộc đất như thế là chỗ tụ khí tàng phong, quả là chơn huyệt.

IV. Quan Trọng Về Mặt Tinh Thần.
  
Có lẽ không ai còn ngờ vực về sự núi non có ảnh hưởng to tát đối với tinh thần, chí hướng của con người.

Dòm lại lịch sử nước nhà, ta thấy phần đông những bực anh hùng dân tộc hay những thi sĩ siêu nhân  hoặc những đấng siêu phàm đều có chịu ít nhiều ảnh hưởng của núi non... Đó là do kh íthiêng un đúc mà cũng tại vì sự hùng vĩ vủa núi non rừng rú nó làm cho con người được chí tại cao sơn, tâm ư thượng đỉnh.

Ngoài trường hợp của những vị anh hùng, những nhà chí sĩ cách mạng ở Nghệ An, Hà Tĩnh (hai tỉnh có lắm núi non) chúng tôi xin kể thêm vài trường hợp khác để làm bằng chứng.

1. Vua Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) khởi nghĩa chống quân Minh ròng rã mười năm trường (và rốt cuộc đã "nên công đại định") là một vị anh hùng áo vải ở núi Lam Sơn.

2. Ông Nguyễn Trãi -người đã giúp mưu cơ cho vua Lê Lợi chiến thắng quân Minh và đã viết bài "Bình Ngô Đại Cáo", một áng văn kiệt tác vẫn còn mãi lưu truyền trong sử sách- là người khi về già đã lên Côn Sơn di dưỡng tính tình và an nhàn tự toại, ngâm khúc Côn Sơn ca.

3. Cụ Trạng Trình rành khoa địa lý, lại thông hiểu bộ Thái Ất Thần Kinh, viết ra nhiều lời sấm truyền mà khi trở về già lại ẩn chốn lâm sơn tác thi dưỡng trí (thơ này góp lại thành quyển Bạch Vân thi tập), sống một cuộc đời thanh bần nhàn nhã. Những câu thi dưới đây đủ để chứng minh một cách hùng biện trạng thái tâm hồn của cụ lúc đó:

Một bầu một bát vững sơn tăng
Hoặc:
Ba gian am quán lòng hằng mến
Đôi chốn sơn hà mặt đã quen
Hay là: Khách nhàn sơn đã dưỡng thân nhàn.

4. Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ), vị anh hùng dân tộc đã "lật đổ Nguyễn, diệt tan Trịnh, đánh bại Mãn Thanh, thống nhứt cả Việt Nam vào cuối thế kỷ thứ 18" là người ở trại Tây Sơn (gần đèo An Khê, trên đường đi Pleiku-Kontum).

5. Ông Nguyễn Quang Thiếp, tức la Sơn Phu Tử -một bậc danh nho cao sĩ, chánh kiến quang minh, biết lẽ tiến thoái tồn vong nhờ thuật số học (lý học, phong thủy, sấm ký), đã được vua Quang Trung mời nhiều lần để hỏi ý kiến và cầu sự cộng tác - là người gốc ở huyện Nghi Xuân, gần núi Hồng Lĩnh (một thắng cảnh ở Hoan Châu và vùng quanh chơn núi đã sản xuất không biết bao nhiêu danh nho, danh tướng), sau này về ngụ ở huyện La Sơn  nên người ta kêu tặng ông là La Sơn Phu Tử. Lúc về già ông lên ẩn náu chốn núi rừng.

Trong Hạnh Am Ký (Bài ký viết trong Am May), ông chép như vầy: (6) "Bởi vậy, ta bỏ hết học khoa cử, chuyên đọc các sách Tính lý, Tứ thơ, Ngũ kinh đại toàn. Vui cùng rừng hố. Núi sông miền Nam châu, dấu chân có gần khắp...
Lúc ấy, ta cùng hai ba đứa học trò lớn bé, giảng dạy các việc của tiên nho. Dạo xem cảnh núi. Ngồi giãi bóng trăng. Tìm suối xem mây. Thần trí khoan khoái..."

5. Cụ Nguyễn Du tức Tố Như tiên sinh, tác giả cuốn Kim Vân Kiều -một áng văn tuyệt tác làm cho các nhà văn trong nước và ngoại quốc nhiệt liệt hoan nghinh- là một thi nhân đã từng lê dấu chơn trên chín mươi chín ngọn núi Hồng Lĩnh.

Trên đây là nói những bậc tiền bối phần đông đã thấm nhuần thuyết tu tề trị bình của Nho giáo và đã xa cách ta đến mấy thế kỷ. Ảnh hưởng của núi non miền Bắc và Trung Việt đối với các vị ấy sánh lại không bằng ảnh hưởng của Thất Sơn đối với những vị học Phật tu Nhân gần đây lối 150 năm trở lại, như: Đức Phật Thầy Tây An, Đức Phật Trùm, Đức Bổn Sư, Ông Sư Vãi Bán Khoai, ông Cử Đa, chư đại đệ tử của Phật Thầy Tây An (ông Cố Quản Thành, ông Tăng Chủ, ông Đình Tây, ông Đạo Xuyến), và hiện nay, Đức Huỳnh Giáo Chủ. (Trong một chương sau, chúng tôi sẽ nói về tiểu sử của các vị trên đây.)

Thật vậy, nếu xưa kia Đức Thích Ca đến Rạch Ni Liên Thuyền trên Linh Thứu Sơn (trong dãy Hy Mã lạp Sơn) và "thấy cỏ cây cảnh bắt tham thiền" nên "ngồi khổ hạnh sáu năm bên ấy" để được đắc đạo thì ngày nay các vị Giáo chủ hay các vị đại đệ tử trong phái Bửu Sơn Kỳ Hương cũng phải có một thời gian tu tâm luyện tánh trong các núi non am cốc nơi chốn Thất Sơn, ẩn mình nơi điện Tam Thanh, điện Rau Tần hay điện Quan Âm chẳng hạn. Cái đó có khác nào trong truyện Tây Du nói Tôn Ngộ Không đến Phương Thốn Sơn học đạo với Bồ Đề Tổ Sư tại Linh Đài Tà Nguyệt Tam Tinh động hay trong truyện Phong Thần nói Khương Tử Nha lên Côn Lôn Sơn thọ giáo với Ngươn Thỉ Thiên Tôn tại động Ngọc Hư...

Đến đâ chúng tôi tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc để luận giải ít điều về hai bộ truyện này.

Truyện Tây Du và truyện Phong Thần là hai bộ lịch sử tiểu thuyết Tàu vô cùng lý thú. Bộ Tây Du nói về sự tu Phật của Khưu Trường Xuân Chơn nhơn (tu Tiên) viết. Còn bộ Phong Thần nói về sự tu Tiên  lại do Bạch Vân Thiền sư (tu Phật) viết. Hai vị là người đồng thời và đều tỏ ra -bằng cách tưởng tượng và xây dựng chung quanh một sự kiện lịch sử- rằng người tu Tiên cũng am hiểu việc tu Phật và kẻ tu Phật cũng biết rõ việc tu Tiên.

Vậy chúng ta xem truyện Tây Du nên hiểu rằng Đường Tăng Tam Tạng (7) thâu phục ba người học trò và con ngựa của Ngài cỡi là tượng trưng người tu hành (có tâm Phật) chế ngự được tâm phàm. Tôn Ngộ Không (ngụ ý gặp được cái lý chơn không) hay Tôn Hành Giả (người dấn thân trên bước đường Đạo), một con người cốt khỉ, tượng trưng cái vọng tâm của con người sơ tâm, nó lao chao như con vượn chuyền nhánh này qua nhánh nọ (tâm viên). Con ngựa của Đường Tăng cỡi, tượng trưng cái ý phóng túng, buông lung, bất định của con người mới tu, nó giống như con ngựa khó kềm cho đứng yên được (ý mã). Trư Bát Giái (ngụ ý tám điều răn cấm), một người cốt heo, tượng trưng sự mê ăn , mê ngủ, thích nhục dục, lại ngu dốt như con heo (mê si). Sa Tăng (ám chỉ người theo hạnh Sa môn trong Tăng già) giết người ăn thịt, lấy sọ người đeo trên cổ, tượng trưng sự hung hăng nóng nảy (sân nộ) v.v... Chớ sự thật không có Tôn Hành Giả, Bát Giái hay Sa Tăng, chỉ có thầy Trần Huyền Trang, một tăng sĩ đã phụng mạng vua Đường đi qua Ấn Độ thỉnh kinh do Đức Thích Ca thuyết hồi đời nhà Châu (nghĩa là hơn một ngàn năm trước nhà Đường).

Xem truyện Phong Thần chúng ta nên suy gẫm về chỗ này. Cũng thời tu Tiên mà có người thuộc phe Xiễn Giáo, có người thuộc phe Triệt Giáo. Vì duyên nghiệp, căn cơ khác nhau nên mỗi vị có một định mạng khác nhau: Khương Tử Nha mặc dù ở non tu luyện hơn 40 năm trường nhưng cũng phải xuống thế làm quan; Đổng Toàn mặc dù tài phép tinh thông mà không làm y theo lời Thầy (8), nên phải đứng bảng Phong Thần; Pháp Giái mặc dù bại trận, sắp bị mạng vong nhưng có Phật Chuẩn Đề rước về tây Phương Cực Lạc vì hạnh đức cao dày; Dương Tiễn, Vi Hộ, Lôi Chấn Tử và bốn cha con Lý Tịnh mặc dù dày công hãn mã và có đủ điều kiện để hưởng lộc triều đình nhưng vẫn quyết định cáo từ về non tu luyện, sau bảy vị đều được nhục thân thành thánh...
Tích xưa như thế, chuyện nay khác gì!
Xin đóng dấu ngoặc lại.

Để kết luận đoạn này, chúng tôi xin quả quyết rằng hoa địa (9) Thất Sơn và trọng địa Cà Mau, Đồng Tháp thật là những vùng cực kỳ quan trọng về mặt tinh hoa dân tộc, kinh tế quốc gia và chiến lược quốc phòng.

vậy trong cuộc tranh đấu hiện giờ, nếu vị nào nắm giữ được hoa địa và trọng địa nói trên, chắc chắn vị ấy sẽ "kiến thiết được một hồi sinh căn cứ địa là nơi thủ hiểm trường kỳ, đào tạo cán bộ, huấn luyện chủ lực quân, để thời cơ đến thì tiến ra phản công như vũ bảo", nắm địa vị bá chủ trong tay.

Chú Thích:

(1)   BỬU là quý báu, SƠN là núi; Bửu Sơn là núi qúy báu.
(2)   Chỉ Thất Sơn.
(3)   Chỉ núi Kỳ Vân ở Bà Rịa (sẽ nói rõ ở đọan sau).
(4)   CHÚ Ý: Trong những thi, bài của Đức Huỳnh Giáo Chủ, sanh trưởng tại thôn Hoà Hảo (Châu Đốc), -trên Cù lao Kết- chúng ta thấy có bài thơ tứ cú sau đây:

          Hoà thôn Hảo cảnh xứ chi ta
        Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà
        Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ
        Chờ thời thiên định thiết hùng ca.

(5) "Đa khuyển phệ" là chó sủa nhiều.
       LƯU Ý: Trong điều răn cấm thứ năm, Đức Huỳnh Giáo Chủ có khuyên bổn đạo đừng ăn thịt trâu, chó, bò. Chó không bị ăn thịt nữa tự nhiên sanh sản rất đông và sủa rất nhiều. Ai có lại vùng H. H. sẽ thấy rõ điều này.
       Phải chăng câu này nghĩa là: Vị Thánh nhơn đó đã từng là người giữ trâu cày ruộng và khuyến nông?
(6)   Đây là lời dịch của ông Hoàng Xuân Hãn.
(7)   Ám chỉ ba tạng kinh Phật là: Kinh, Luật, Luận.
(8)   Thầy của Đổng Toàn có viết trên cửa động Bích Du hai câu như vầy:
Đóng cửa tụng Huỳnh đình, thiệt bực số thành ngôi chánh quả.
Tách mình qua Tây Thổ, là người tên đứng bảng Phong Thần.
(10) Theo một nhà khảo sử thì, đứng về phương diện khoa học quốc phòng, một quốc gia luôn luôn có hai vùng: 1. HOA ĐỊA là nơi tập trung tinh hoa của đất nước (Hoa Địa của nước ta thuở xưa là núi Thới Sơn. Ngày nay Hoa Địa của ta là Thất Sơn, nơi xuất hiện phái Bửu Sơn Kỳ Hương, tinh hoa của đất nước. 2. TRỌNG ĐỊA (khu trọng yếu cho cuộc quốc phòng), là nơi có đủ điều kiện kinh tế, văn hoá, nhân sự để khi nước nhà gặp cơn binh lửa thì ta có thể tiến, thoái, công, thủ.




PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG I
Đức Phật Thầy Tây An
GS Nguyễn Văn Hầu.

VI. GIÁO LÝ CĂN BẢN.

Để cho được thích hạp với trình độ và căn cơ của quần chúng trong thời kỳ Hạ ngươn, Đức Phật Thầy chủ trương đem giáo pháp vô vi của đạo Phật mà truyền dạy trong dân gian. Ngài không cho trần thiết tượng cốt, tụng đọc ó la như trong nhà thiền đã làm; Tại ngôi Tam Bảo chỉ thờ trần điều, tiêu biểu tinh thần vô thượng của nhà Phật mà thôi.

Ngài đặc biệt quan tâm đến vấn đề đưa ra những giáo thuyết về việc Học Phật Tu Nhân, bởi hầu hết tín đồ của Ngài hồi ấy là hạng tại gia cư sĩ.

Về học Phật ta thấy Ngài gom vào ba điều căn bản trong Phật pháp là Giới, Định, Tuệ.

Giới: Là những sợi dây buộc ta vào chánh đạo, không cho ta phạm vào những lầm lỗi xấu xa và để ta đừng làm những điều tàn ác vô minh nữa.

Định: Suy nghĩ đến những lạc thú ở đời, cho nó đều là mỏng manh, giả ảo; diệt trừ ham muốn và nghĩ đến cuộc đời vô thường, tập trung tư tưởng để quan sát lý đạo, tìm hiểu chánh chân.

Tuệ: Hiểu thấu lý vô thường và sự khổ của con người, không bao giờ bị vô thường và s5ư khổ của con người, không bao giờ bị vô thường và sự khổ não chi phối mình nữa, nên bao nhiêu sự đau khổ đều được diệt trừ, thấy được Phật tánh (bản lai diện mục).
Vì Ngài đã có nói:

Lọc lừa thì đặng nước trong,
Ma, Phật trong lòng lựa phải tìm đâu.
Haylà:
Cam lồ rửa được tánh mê,
Nước trong thì thấy nguyệt kia xa gì.
Và:
Dốc lòng niệm chữ từ bi
Lấy dao trí tuệ cắt đi cho rồi.

Ngài quyết đem lại cho quần chúng thấy được ánh sáng của cuộc đời là sống an vui, sống với lòng yêu thương nhau thân thiết chứ không phải sống để hành hạ nhau. Bởi vậy Ngài luôn luôn ở bên cạnh quần chúng để tế độ và hướng dẫn họ tới chỗ nhận thức rõ rệt sứ mạg đạo Phật, không cho quần chúng hiẻu lầm rằng đạo Phật là chỗ để trốn nợ Đời, hay chỉ sống im lìm một mình đặng chờ ngày về cõi Niết bàn riêng hưởng an vui.
Tất cả giáo lý ấy chứng tỏ Ngài có óc thực tiễn khác thường.

Về tu nhân, Đức Phật Thầy thường khuyến khích các môn nhân đệ tử nên đề đáp lại tứ đại trọng ân. Ngài nói:

Loài cầm thú còn hay biết ổ,
Huống chi người nỡ bỏ tứ ân.

Bốn điều ân ấy, Đức Huỳnh Giáo Chủ có kể ra và giải nghĩa rất rõ rệt:

1. Ân tổ tiên cha mẹ;
2. Ân đất nước;
3. Ân Tam Bảo;
4. Ân đồng bào và nhân loại (với kẻ xuất gia thì ân đàn na thí chủ).

   Ân Tổ Tiên Cha Mẹ:

Ta sanh ra cõi đời được có hình-hài để hoạt-động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ nhọc ; nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ-tiên nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn tổ-tiên nữa.
Muốn biết ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh-tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm-chỉ nghe lời, chớ nên xao-lãng, làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm lẫn trái với nhân-đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên-lơn ngăn-cản. Chẳng thế ta cần phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh-hoạn ốm-đau, gây sự hòa-hảo trong đệ-huynh, tạo hạnh-phúc cho gia-đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa-mãn. Rán cầu cho cha mẹ hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh-hồn được siêu-thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm luân.
Còn đền ơn tổ-tiên, là đừng làm điều gì tồi-tệ điếm nhục tông-môn, nếu tổ-tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau-thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy sinh đời ta làm điều đạo nghĩa, rửa nhục tổ-đường.

Ân Ðất-Nước:


Sanh ra, ta phải nhờ ơn tổ-tiên, cha-mẹ, sống ta cũng nhờ đất nước, quê-hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự sống được dễ-dàng, giống nòi được truyền thụ, ta cảm thấy bổn-phận phải bảo-vệ đất nước khi bị kẻ xâm-lăng giày đạp. Rán nâng-đỡ xứ sở quê-hương lúc nghiêng-nghèo, và làm cho được trở nên cường-thạnh, rán cứu-cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống-trị. Bờ-cõi vững lặng thân ta mới yên,quốc-gia mạnh giàu mình ta mới ấm.

Hãy tùy tài tùy sức, nỗ lực hy-sinh cho xứ-sở. Thảng như không đủ tài-lực đảm-đương việc lớn, chưa gặp thời-cơ giúp đỡ quê-hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ-xuất đến đổi làm cho nước nhà đau-khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn hại đến đất-nước.
Ðó là ta đền ơn cho đất-nước vậy
Ân Tam-bảo:

Tam-Bảo là gì ?.- Tức Phật, Pháp, Tăng.
Con người nhờ tổ-tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất-nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về phương-diện vật chất.
Về phương-diện tinh-thần, con người cần nhờ đến sự giúp-đỡ của Phật, Pháp, Tăng, khai mở trí óc cho sáng-suốt. Phật là đấng toàn thiện, toàn mỹ, bác-ái vô cùng, quyết cứu-vớt sanh-linh ra khỏi vòng trầm-luân khổ-hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo-pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng đặng đem nền Ðạo cả của Ngài ban bố khắp trần-thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại đệ-tử của Ðức Phật vậy. Bởi vì Ðức Phật luôn luôn chỉ-dẫn và cứu-vớt quần sanh thoát miền mê-khổ, nên ta hãy kính-trọng Phật, hãy tin-tưởng và tín-nhiệm vào sự-nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ-tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm-mầu, lòng quảng-ái của Phật đối với chúng-sanh, đã kính trọng sùng-bái Ngài, đã hành-động đúng theo khuôn-khổ Ngài đã dạy và đã vun trồng bồi-đắp cho nền Ðạo được phát-triễn thêm ra, xây dựng một tòa lầu đài Ðạo-hạnh vô thượng vô song, roi truyền mãi mãi với hậu-thế.
Nên bổn-phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền-nhân hầu làm cho trí-tuệ minh-mẫn đặng đi đến con đường giải-thoát, dẫn-dắt giùm kẻ sa-cơ và nhứt là phải tiếp-tục khai-thông nền Ðạo-đức đặng cái tinh-thần từ-bi bác-ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá-tánh. Như thế mới chẳng phụ công-trình vĩ-đại của Ðức Phật và của tiền-nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.

Ân Ðồng-Bào và Nhân-loại:

Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp-đỡ của những kẻ ở xung quanh, và cái niên-kỷ càng lớn thêm bao nhiêu, sự nhờ-nhõi càng tuần-tự thêm nhiều chừng nấy.
Ta nhờ hột cơm của họ mới sống, nhờ miếng vải của họ mới ấm thân, nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong-vũ. Vui-sướng : ta đồng hưởng với họ. Hoạn-nạn : họ cùng chịu với ta.
Họ và ta cũng một màu da, cũng nói một thứ tiếng. Ta và họ hợp nhau thành lại làm một : ấy Quốc-gia đó. Họ là ai ? Tức những người ta thường gọi bằng đồng-bào vậy.
Ðồng-bào ta và ta cùng chung một chủng-tộc, cùng một nòi giống roi truyền, cùng có những trang lịch-sử vẻ-vang oanh-liệt, cùng tương-trợ lẫn nhau trong cơn nguy-biến, cùng chung phận-sự đào-tạo tương-lai rực-rỡ trong bước tiền-đồ của giang-san đất nước. Ðồng-bào ta và ta có một liên-quan mật-thiết, không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau, và chẳng khi nào có ta mà không có đồng-bào, hay có đồng-bào mà không có ta. Thế nên, ta phải rán giúp-đỡ họ hầu đáp đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.
Chẳng những thế thôi, ngoài đồng-bào, ta còn có thế-giới người đang cậm-cụi cần-lao cung-cấp những nhu-cầu cần-thiết. Họ là nhân-loại, là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa-cầu. Nếu không có nhân-loại, thử hỏi dân-tộc ta ra như thế nào? Ta có đủ vật-liệu để dùng chăng? Ta có thể tự-túc một cách đầy-đủ chăng ? Nói tóm lại, ta có thể lẻ-loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt hàn, vời những lúc ốm-đau, nguy-biến, giữ vững cuộc sống còn nầy chăng ? Hẳn không vậy. Thế nên dân-tộc ta phải nhờ đến Nhân-loại, nghĩa là nhờ đến dân-tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình và đồng-chủng mình.
Vả lại cái tình từ-bi bác-ái của Ðức Phật mà ta đã nhận-thức, rất thâm-huyền quảng-huợt. Cái tình ấy, nó không bến không bờ, không phân-biệt màu da, không phân-biệt chủng-tộc; nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các từng lớp đẳng-cấp xã-hội, mà chỉ đặt vào một : Nhân-loại Chúng sanh.
Thế, ta không có lý-do gì chánh-đáng để vì mình hay đồng-bào mình, gây ra tai hại cho các dân tộc khác. Trái lại, hãy đặt vào họ một tư-tưởng nhân-hòa, một tinh-thần hỉ-xả và hãy tự xem mình có bổn-phận giúp-đở họ trong cơn hoạn-nạn.
Ðối với những kẻ xuất-gia quy-y đầu Phật, phụ vào những ân-huệ đã thọ như đã nói trên, họ còn phải trực-tiếp chịu-ân của các đàn-na thí-chủ, nghĩa là những thiện-nam tín-nữ có hảo tâm cung-cấp những vật dụng cần-thiết cho họ. Họ nhờ đến hột cơm, đến miếng vải, đến thuốc men đặng sanh sống. Rốt lại họ phải nhờ đến sự nuôi dưỡng hoàn-toàn của những kẻ tốt lòng.
Với quần sanh, họ mang cái ân rất nặng cho nên họ phải dìu-dắt sinh-linh đi tầm Chân-lý đặng đáp tạ tấm lòng chiếu-cố của Thiện tín.

Xét qua giáo lý và hành động của Đức Phật Thầy, ta có thể mạnh bạo mà nói ngài là một nhà cách mạng tôn giáo tièn phong trong lịch sử Phật giáo Nam Việt. Vì trong lúc Ngài ra đời, đạo Phật đang đi sâu vào chỗ lu mờ suy đốn, do một số nhà sư làm lệch lạc, sai xa với Pháp giáo chơn truyền. Chính Ngài, trước hơn ai hết, đã cương quyết đứng lên thực hành chánh pháp, phổ hoá quần sanh, gây nên một phong trào đạo hạnh sôi nổi và lan tràn mà từ xưa, lịch sử đã chứng minh chưa từng có.

Một ông nguyễn Văn Xuyến với chánh pháp thần thông, hoá dân trợ thế; một ông Phạm Thái Chung với pháp thuật cao kỳ, hoằng dương mối đạo; một Đức Cố Quản Thành với tràn đầy lòng trung liệt, vì nước quên mình; một ông Nguyễn Văn Thới với mênh mông hồn ưu ái giang sơn tổ quốc... Ngần ấy điều kiện há không đủ chứng tỏ rằng giáo lý của Đức Phật Thầy là một giáo lý cao siêu vô thượng, không quên đạo, chẳng bỏ đời ("đời đạo liên quan rạng chói...") đó sao?

VII. NHỮNG DI TÍCH CÓ LIÊN HỆ ĐẾn ĐỨC PHẬT THẦY.

A. Ở Tòng Sơn

Từ chợ Cái Tàu Thượng (Sadec) đi đổ xuống rẽ sang lột đất lối hai ngàn thước, du khách sẽ trông thấy xa xa một ngôi đình lợp bằng ngói, ẩn hiện sau mấy chòm cổ thụ như trôm, dầu ... đó là đình làng Tòng Sơn, một dấu vết ở quê hương của Đức Phật Thầy, nơi mà xưa kia, Ngài về nương náu sau mái hiên, sau bao nhiêu năm xa cách.

Trải mấy lần đất lở, đình này phải dời đi cất lại đến chỗ ngày nay. Trong đình, tại bàn chánh thì thờ trần điều, còn bàn Thần thì đặt ngay một hương án ở chính giữa phiá trước. Hai bên: tả ban thì thờ cửu huyền, hữu ban thì thờ Đức Phật Thầy, trên bàn có một tấm biển bằng cây, sơn son thiếp vàng, lớn độ một thước bề ngang, một thước rưởi bề đứng, có khắc sâu những chữ: Đoàn Phật Sư ở giữa, và một đôi liễn kiến hai bên, đề:

Tòng Sơn đắc ngộ Phật
Tây An quả giác Sư

Hằng năm đến ngày 12 tháng 8 là ngày vía của Đức Phật Thầy, đình này có cúng kiến long trọng như các chùa chiền vậy.

B. Ở Cái Nai

Mộ Phật Mẫu (thân mẫu của Đức Phật Thầy) hiện ở rạch Cái Nai (thuộc thôn An Thạnh Trung, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên (An Giang). Rạch này cách cho Cái Tàu Thượng lối năm ngàn bốn trăm thước. Từ vàm rạch vào đến mộ chừng hai trăm thước nữa, chung quanh mộ có trồng ô môi và có cất một cái nhà thờ, có người ở đây lửa hương phụng tự.

Tương truyền rằng trước đây khi chưa có người coi giữ mộ này, trâu bò cũng không dám đến gần; có khi người ta cho trâu đi ăn khuya lỡ lạc  lại gần đó thì trâu bỗng nhiên nghinh lên rồi thụt lui mà chạy, chừng như nó thấy được ai chận đuổi nó vậy. Bởi thế nê ngôi mộ này đến nay, dù đã trải nhiều mưa nắng, nhưng đất vẫn gò lên, khách đi thuyền qua đây dòm lên còn thấy cao hơn các chỗ khác.

C. Ở Long Kiến

Tại làng Long Kiến (tổng Định Hoà, Long Xuyên), phía hữu ngạn sông ông Chưởng, khách đi đường sẽ trông thấy một ngôi chùa lộng lẫy nguy nga, trước sân có một cây dầu, chung quanh có xây bồn bằng gạch, ấy là chùa Tây An Cổ Tự, một di tích của Đức Phật Thầy. Ngày xưa Ngài có về đây để phát phù trị bịnh cho đến khi bị dời về An Giang. Nơi này trước kia là cái cốc của ông Kiến. Tuy đã qua mấy bận hư hao và một lần bị cháy, người ta đều sửa lại cho có chỗ thờ phượng. Đến năm 1952, chùa này mới được dựng lại và sửa sang đồ sộ như ngày nay.

D. Ở Núi Sam

Từ Chợ Châu Đốc đi vào năm ngàn thước thì tới núi Sam, rẽ sang phía tả, nhìn lên thấy ngôi chùa lồng lộng nằm trên triền núi, ngoài ngõ có đề ba chữ Tây An Môn, ấy là chùa Tây An (tục gọi là chùa chánh) ở núi Sam. Đây là nơí Đức Phật Thầy nương náu để độ dân cho đến ngày nhập diệt. Trong chùa, Phật cốt rất nhiều, vì chùa này là của giáo phái Lâm Tế như đã nói ở đoạn trước, nên không có chi là dấu vết của Đức Phật Thầy.

Sau chùa, về phia Đông có một vòng thành vuông rộng 5 thước 45 bề dài, 4 thước 75 bề ngang, nằm trên chín cấp nấc gạch, ấy là mộ của Đức Phật Thầy.
Một không có đắp nấm, trước mộ có một tấm bia khắc những chữ:

"Ngươn sanh Đinh Mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhựt, ngọ thời chú sanh.
Tự Lâm Tế gia chư thiên phổ chánh phái tam thập bát thế, thượng Pháp hạ Tạng, tánh Đoàn; pháp danh huý Huyên, đạo hiệu GiácLinh chi vãn tọa.
Tịch ư Bính Thìn niên, bát ngoạt, thập nhị nhựt, ngọ thời thị tịch diệt."

E. Ở Thới Sơn

Trại ruộng ở Thới Sơn cách xa núi Sam trên mười ngàn thước. Ngày xưa, khi lập xong, Đức Phật Thầy giao cho ông Tăng chủ và ông Đình Tây ở giữ. Nơi nầy có hai di tích: Phước Điền Tự và Thới Sơn Tự. Hai chùa này cách nhau đọ hai ngàn thước. Khi Đức Phật Thầy mới vào đây, Ngài để trâu (ông Sấm và ông Sét) và làm ruộng tại Phước Điền, còn Thới sơn(ngày xưa là trại ruộng Hưng Thới) thì cất để thờ phượng và để ở thôi.

Tại Phước Điền Tự còn có hai đôi liễn thờ ở bàn chánh và dán ngoài cửa ngõ. Người ta bảo là của Đức Phật Thầy chỉ cho tín đồ viết và lưu truyền đến ngày nay.

 Liễn ở cửa ngõ:

Nhứt trần bất nhiễm bồ đề địa
Vạn thiện đồng quy bát nhã môn

Liễn ở bàn thờ chánh:

Phước bảo thiền quang thanh tịnh vô vi thường phổ chiếu;
Điền kinh công đức viên dung bát nhã biến thông truyền.

Và một linh vị:

"Ngươn sanh Đinh Mão niên, thập ngoạt, thập ngũ nhựt, ngọ thời hưởng dương ngũ thập tuế.
Cung thỉnh Lâm Tế chánh tông tam thập bát thế, thượng Pháp hạ Tạng, tánh Đoàn; pháp danh huý Minh Huyên, đạo hiệu GiácLinh chứng minh.
Vãng ư Bính Thìn niên, bát ngoạt, thập nhị nhựt, ngọ thời nhi chung."

Về sau khi ông ĐìnhTây ttịch, trại ruộng Thới Sơn được sửa sang lại thành một ngôi chùa nguy nga, nhưng qua bao nhiêu lần dâu bể, chùa ngày nay chỉ còn mấy nếp lợp thiếc và lá mà thôi. Gần chùa còn có mấy ngôi mộ của ông Tăng Chủ và ông bà Đình Tây là những người có công nghiệp rất to tát trong việc mở mang làng xóm dân cư ở đây ngày xưa.

G. Ở Láng Linh

Từ vàm kinh xáng Vịnh Tre đi vô độ mười ngàn thước thì tới trại ruộng Bửu Hương Các ở Láng Linh (thuộc làng Thạnh Mỹ Tây, tổng An Lương, Châu Đốc). Chỗ này là một di tích mà Đức Phật Thầy xưa đã rẽ đất rạch hoang để mở cơ hoằng pháp. Ngài giao trại ruộng này cho Đức Cố Quản Trần Văn Thành coi giữ. Ngày nay qua nhiều trận hư hao, nơi đây được chấn chỉnh lại, trang hoàng, lợp ngói, vách gạch và có ông Nguyễn Văn Tịnh, một đệ tử cũ của ông Hai Trần Văn Nhu ở giữ gìn phụng tự.




PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG II
Các Vị Giáo Chủ Hoằng Đạo Sau
Đức Phật Thầy Tây An
GS Nguyễn Văn Hầu.

II. ĐỨC BỔN SƯ (?-1909)

A. Thân Thế

Ngài chính danh là Ngô Lợi, lại còn có tên riêng là Hữu. Bởi vì Ngài thứ năm cho nên lúc mới ra đời cứu bịnh, người ta gọi Ngài là cậu năm Hữu.
Ngài còn có biệt tài về việc đi thiếp, nên người đời gọi Ngài là năm Thiếp.
Tướng Ngài nho nha, cách đi đứng dịu dàng, tánh tình hoà hưởn, dễ dãi và hay giả dạng đàn bà. Đối với tín đồ, Ngài tuỳ theo lớn nhỏ mà kêu gọi bằng anh chị hay cô bác chứ không gọi bằng con.

Ngài sanh trưởng tại Dội (gần Mộc Bài), chỗ giáp giới biên thùy Miên Việt, thuộc tỉnh Châu Đốc (1). Thân thuộc của Ngài hiện giờ tìm hỏi không còn thấy ai.

Cũng như Đức Phật Thầy Tây An, Ngài tự nhiên tỏ ngộ, hiểu thấu lẽ diệu huyền, không học mà thông và có rất nhiều pháp thuật.

B. Cứu Bịnh

Lúc Ngài mới ra đời cứu bịnh và rời nhà ra đi trong trường hợp nào, chưa tìm biết được, song có thể hiểu rõ rằng Ngài có đến Cù Lao Ba (thuộc thôn Vĩnh Trường, tỉnh Châu Đốc) trong khi dân chúng vùng này đang bị nạn dịch tả hoành hành. Ngài chỉ dùng nước lã, giấy vàng như Đức Phật Thầy Tây An để cứu độ bịnh nhân chứ không phải hao tốn thuốc men chi hết, thế mà bịnh nào cũng mạnh. Tiếng đồn vang khắp các nơi, dân chúng theo về quy y mỗi ngàymột đông, không sao kể xiết.

Ngài ở Cù Lao Ba một độ rồi lên vùng Thất Sơn, sang núi Dài, đến núi Tượng, đâu đâu Ngài cũng truyền dạy đạo đức và cứu bịnh giúp đời, thâu nhận tín đồ và dựng chùa thờ Phật.

Bở thinh thế của Ngài rất to cho nên nhà cầm quyền Pháp hồi ấy sợ lắm, thường tìm cách để bắt và tiêu diệt giáo phái của Ngài, song với các thay hình đổi dạng của Ngài (khi đàn bà con gái, lúc trẻ nít thơ ngây), người ta không tài nào hiểu nổi tông tích của Ngài ở đâu được.

C. Việc Phá Ếm

Chẳng những Ngài ở Cù Lao Ba và vào vùng núi Tượng mà thôi, Ngài còn vân du truyền đạo khắp nơi. Ngài có lần xuống Láng Linh hội kiến cùng Đức Cố Quản Trần Văn Thành trong hồi Ngài Cố Quản đang chiêu binh chống Pháp (cuộc gặp gỡ này không ngoài sự mưu tính công việc khởi nghĩa phục quốc.)

Một lần nọ, Ngài cùng mấy tín đồ đi lang thang trong vùng núi Nước (một hòn núi nhỏ trong vùng Thất Sơn. Trong khi ngắm xem phong cảnh, Ngài bỗng kêu tín đồ lại mà cho biết rằng tại đây có một cây ếm rất độc, có phương hại cho tương lai của dân tộc Việt Nam. Mấy người tín đồ ngơ ngác không biết gì. Ngài mới vừa chỉ vừa bảo rằng: "Dưới gốc ba cây da to lớn trước mặt kia, là chỗ có ếm!"

Hôm sau Ngài dẫn đến lối bốn năm chục người đệ tử, vác riều vác búa, có đeo theo khăn ấn để trấn áp tà ma rồi áp vào đốn hết cả ba cây đa ấy. Khi hạ được rồi, Ngài cho móc hết gốc rễ tận dưới đất sâu, thì quả nhiên, có một cây ếm bằng đá, chữ khắc đã lu mờ song hồi ấy còn có thể nhận ra được là của bọn người khách trú. Cái ếm ấy hiện giờ không còn thấy ở đâu, song bằng vào cái ếm để ở làng Nhơn Hưng (quận Tịnh Biên) mà ông Phạm Thái Chung đã lấy được thì sự thật vẫn hiển nhiên là có.

D. Trở Về Núi Tượng

Sau khi bôn ba đây đó, Ngài trở về núi Tượng mở rộng chùa chiền, quy tụ dân cư và lập nên mối đạo Hiếu Nghĩa như chúng ta thấy còn lưu truyền đến ngày nay.

Người ta thuật lại rằng lúc ở núi Tượng, một hôm có quân Pháp kéo đến ba vây để lùng bắt Ngài cùng các tín đồ tên tuổi trong đạo. Lúc ấy Ngài đang ngồi vót nan, bổn đạo rùng rùng kéo đến rất đông, báo cho Ngài hay và yêu cầu Ngài liệu phương để đem nhau đào nạn. Ngài nghe xong vẫn ngồi điềm nhiên làm việc và nói không hề chi.

Một chập sau, quân Pháp tiến sát đến một bên bắn phá rất dữ dội. Bổn đạo có nhiều người lo sợ quá, kêu khóc vang lên và xin Ngài hãy chạy. Thấy thế, Ngài cầm mác đứng dậy dẫn đầu rồi bảo tín đồ hãy theo bóng Ngài mà đi. Liền đó, Ngài và một số người đông đảo như thế kéo ra ngang mặt quân Pháp mà không bị họ thấy được...

Thấy quân Pháp nghi ngờ và thường đến khuyấy nhiễu, Ngài bèn rời núi Tượng, sang qua núi Dài, cùng với một số tín đồ sẵn có tại đây, dựng lên chùa chiền và chăm lo đạo đức.

E. Khi Diệt Độ

Ngày 13 tháng 10 năm Kỷ Dậu (1909), Ngài đang mạnh giỏi như thường, bỗng kêu các đệ tử lại mà cho hay rằng Ngài sắp diệt độ, và dặn hễ khi thấy Ngài tắt thở thì hãy cứ để xác y nguyên như vậy đừng chôn, lo tu cầu và giữ gìn cho cẩn thận một thời gian thì Ngài sẽ trở lại (1)
Thế là nội ngày hôm ấy, Ngài tịch diệt. Tín đồ vâng theo lời dặn, giữ xác Ngài và đặt đàn tụng niệm kinh kệ luôn.

Biết Thầy đã liễu ngộ và có hẹn ngày trở lại, thấy anh em đồng đạo ở núi Dài có cái diễm phúc hơn là được giữ xác của Thầy, các ông Trò (2) ở núi Tượng bèn sắp đặt mưu lược, đang đêm kéo đến vây núi Dài, áp vào đánh đuổi những người giữ xác Đức Bổn Sư rồi cõng Ngài đem thẳng về núi Tượng (3).

Tại núi Tượng, các ông Trò lúc đầu giữ gìn phần xác của Đức Bổn Sư rất cẩn thận, họ để Ngài trong mùng nhiễu xanh phía sau bàn chánh điện trong chùa, rồi ngày đêm canh gác và tụng niệm không ngớt. Song chỉ được vài tháng như vậy, họ bắt đầu chểng mảng dần, sự giữ gìn không được kỹ càng nữa. Vì thế mà phần xác thịt của Ngài  bị chuột vào cắn mất một lóng tay. (4)

Một hôm các ông Trò xúm nhau vào thăm, thấy thế, họ lấy làm lo sợ tội lỗi với Thầy, nên bàn nhau đóng một cái rương, xong họ thỉnh xác Ngài đem để kín trong đó.

Sự tranh dành phần xác của Đức Bổn Sư do nhóm tín đồ chia rẽ nhau lâu ngày đã làm lọt đến tai quân Pháp ở Tịnh Biên. Họ kéo vào núi Tượng bao vây, quyết phen nầy tìm cho được Ngài, mặc dầu họ đã nghe biết là xác chết.

Hôm ấy nhằm lúc chỉ còn một số ít tín đồ ở giữ tại chùa. Thình lình nghe có quân Pháp đến, họ hãi kinh, không biết làm cách nào để giấu cho kịp xác của Thầy và để cho tự mình trốn tránh. Bỗng từ ngoài có một mãnh hổ rất to, nhảy a vào, hộc lên mấy tiếng vang cả rừng núi rồi đến giở rương, cõng xác Đức Bổn Sư chạy mất.

Từ ấy về sau, và mãi cho đến ngày nay, không ai nghe thấy được Đức Bổn Sư ở đâu nữa. Nếu có ai tò mò đến hỏi thăm các ông Gánh (là những người hiện giữ đạo Hiếu Nghĩa, sau lớp ông Trò) về đoạn này thì họ hạ giọng xuống, lắc đầu mà nói rằng:

- Chuyện ấy không thể nói được!

Ngài để lại cho đời một quyển Đồ Thư, trong ấy có chép chuyện biến thiên của đất nước, và tại Tam Bửu Tự ở làng An Định, quận Tịnh Biên, còn chạm vào cột một bài thi của Ngài. Xin chép y nguyên văn vào đây để làm dấu tích:

Thất minh thất ám lưỡng hề nghi
Phương tốn thường tồn bất khả khi.
Mặc vị thiên cao Thần Thánh viễn,
Yêu tu tiên úy tự gia tri.
Bồ đề niệm niệm vĩnh vô khổ,
Đắc pháp thành thân phước phóng thùy.
Giải thoát mê trần cam lộ sái,
Ma Ha Bát Nhã mật tâm trì.

GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) Có thuyết nói Ngài hẹn đúng một trăm ngày sẽ trở lại.
(2) Ông Trò là các đại đệ tử của Đức Bổn Sư, danh từ này trong Đạo Hiếu Nghĩa đã thông dụng.
(3) Có người nói Đức Bổn Sư đã tiên tri có sự xô xát xảy ra giữa khối tín đồ của Ngài sau khi Ngài tịch, cho nên Ngài đã sai ông Trò lớn (người cầm đầu ở núi Dài), giỏi võ nghệ, đi xa để tránhsự đổ máu trong lúc tín đồ ở núi Tượng kéo sang núi Dài cướp xác Ngài.
(4) Một thuyết khác lại cho rằng Ngài tịch như vậy hai lần, một lần ở núi Tượng trước, tín đồ ở núi Tượng thấy lâu ngày bả nhả mới đem xác Ngài giáu trên Điện Kín, nên bị chuột cắn đứt một trái tai. Rồi sau sống lại, Ngài lại sang núi Dài cũng tịch y như trên đã nói.


PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG II
Các Vị Giáo Chủ Hoằng Đạo Sau
Đức Phật Thầy Tây An
GS Nguyễn Văn Hầu.

III. ÔNG SƯ-VÃI BÁN KHOAI (Đầu thế kỷ 20)

A. Thân Thế

Ông tên thật là Mỹ, họ gì không rõ. Quê quán và lai lịch tổ tiên như thế nào, hỏi không ai biết. Ông có vợ, sanh được hai con và thường đến Vĩnh Gia thuộc kinh Vĩnh Tế (Châu Đốc).
Hình dạng nhỏ bé ốm yếu như người đàn bà, trước ngực thường mang một cái yếm, xa trông giống hệt như một cô vãi. Lại nữa, ông trị bịnh cứu đời hay dùng vải áo, vải khăn của mình mà cho, nhân thế người ta đặt cho ông cái biệt danh là Ông Sư Vãi.

Vào khoảng năm Tân Sửu (1901) và Nhâm Dần (1902), ông thường giả dạng thương nhân đi bán khoai ở xứ Cao Miên và trong Kinh Vĩnh Tế để tùy cơ khuyến thiện người đời. Thấy vậy người đời mới qen gọi ông là Ông Sư Vãi Bán Khoai.

Ông có nhiều pháp thuật và võ nghệ. Nội ngón tay cái của ông, mỗi khi cần niệm kinh hay đọc chú, ông dùng cây gỏ vào thì có tiếng kêu lốc cốc giống như mõ của cá thầy phù thủy.

Lúc ở Vĩnh Thông, Ông thưòng hay đi nhổ bàng để dệt đệm. Mô ộhôm, ông đang cầm mác thông đi chặt bàng trong đồng,bỗng nghe có tiếng người lẫn tiếng cọp la hét vang rần gần đó. Ông liền cầm mác chạy lại thì thấy ông Mạnh, người cùng xóm, đang dùng một thế võ, hai tay nắm chặt bốn chân con cọp và đội thẳng bụng cọp trên đầu, nhưg vì gặp phải cọp mạnh quá, ông Mạnh không đập xuống được mà cũng kh6ng dám thả cọp ra. Ông liền cầm mác thông nhảy tới, vươn mình lên thật cao, hét lên rồi chém sả xuống một mác thật mạnh, con cọp bị đút ra làm hai đoạn mà ông Mạng không hể bị dao phạm chút nào!

B. Vân Du Dạy Đời

Ông thường bơi xuồng giả dạng người bán khoai để cảnh tỉnh người đời. Trong Sám Giảng của ông có đoạn chép:

Nào khi Sư Vãi Bán Khoai,
Trong kinh Vĩnh Tế ai ai cũng lầm
Mặt cân tôi chẳng biết cầm,
Quê mùa già cả âm thầm biết chi!

Ông còn dùng lời lành để kêu gọi dân chúng trở về đường tu, chẳng những ở Vĩnh Tế, mà khắp vùng Thất Sơn, đâu đâu cũng có ông.

Hư nên các việc tỏ bày,
Tôi không có ép có nài chi ai.
Thương thay ông lão bán khoai,
Lên non xuống núi hôm mai dạy đời.
Thân sao nay đổi mai dời,
Xóm kia làng nọ khổ thay thân già!
Nam Mô Đức Phật Di Đà,
Khiến người trở lại thảo gia của người.
Bạc bảy đâu sánh vàng mười,
Hiền lương đâu xứng với người hung hăng.
Khùng như Sư-Vãi ai bằng,
Khôn như bợm bãi nhiều thằng mang gông.
Lời khuyên khắp hết tây đông,
Chừng nào hết cá dưới sông, hết đời.

Ngoài việc khuyên đời tỉnh thân thiện niệm, Ông còn nhắc nhở bổn phận làm người, và gợi lên tấm lòng trung quân ái quốc:

Niệm Phật thì phải chí tình,
Ơn cha nghĩa mẹ giữ mình cân phân.
Niệm Phật phải giữ Tứ Ân,
Ơn nhà nợ nước xử phân trọn nghì.

Và:

Thảo cha ngay chúa xưa nay,
Dẫu mà có thác miễu son tạc thờ
Xem trong các truyện các thơ,
Nịnh thần có thác, miễu thờ ở đâu!

Ông có đến Cù lao Ông Chưởng (Long Xuyên) một lần , và sau lại, ông trở về núi Cấm.
Chỉ nội trong khoảng hai năm Tân Sửu và Nhâm Dần, người ta còn nghe thấy ông vân du để giáo dụ người đời. Nhưng từ đó về sau, không ai còn biết Ông ở đâu nữa.

Ông để lại một bổn "Sám Giảng Người Đời" (11 quyển) với mục đích dạy người làm lành lánh dữ và trung nghĩa với Tổ Quốc giang sơn. Bổn Sám Giảng ấy ngày nay vẫn còn truyền tụng.

IV. ÔNG CỬ ĐA (Cuối thế kỷ thứ 19)

A. Thân Thế Và Sự Nghiệp Ở Trần Gian

Ông tên thật là Nguyễn Đa. Vì đã thi đỗ võ Cử Nhân nên người đời gọi là ông Cử Đa. Lúc mới đến Thất Sơn, nhiều người thấy tiếng nói của ông phát giọng miền Trung, cho nên cũng gọi ông là Thầy Huế. Quê ông ở làng Phù Cát (có chỗ chép là Phù Lạc), huyện bình Khê, tỉnh Qui Nhơn, nơi đã từng hun đúc bậc đại anh hùng cứu quốc: Vua Quang Trung Nguyễn Huệ.

Ông sanh đẻ năm năm nào và th đỗ khoa nào không ai được biết, có điều biết rằng khi ông vào tới Thất Sơn thì chính là lúc ông Nguyễn Trung Trực đang thất bại ở miền Đông, lui về ẩn náu ở Hòn Chông, Kiên Giang (Rạch Giá), khoảng năm 1867-1868. Hồi ấy có người phỏng định ông được lối 40 tuổi.

Xét ra trong sử Việt và các sách nói về binh chế Việt Nam, thì trong khoảng trước ngày ông Cử vào Nam, thấy có những khoa thi võ vào năm Thiệu Trị thứ năm (1845) và năm Tự Đức thứ 18 (1852) là kai khoa mà với niên kỷ của ông Cử hồi ấy có thể thi được, nhưng không thấy chỗ nào có ghi chép tên họ các thí sinh trúng tuyển. Như vậy, ta có thể hiểu được ông Cử thi đỗ một trong hai khoa này mà thôi, nhứt là khoa Thiệu Trị thứ năm thì có phần đúng hơn.

Từ khi ông Cử thi đỗ về sau, cánh chim bằng không ngớt tung bay đây đó để mưu đồ hộ quốc tỳ dân. Khi đến phía bắc miền Trung, khi vào Thuộc Nhiêu (1) miền Nam, nhưng đến đâu ông cũng đều gặp phải cảnh trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Sau rốt, bước chân giang hồ mới dừng lại ở Thất Sơn.

Để hiểu rõ tấm lòng ưu ái kiên trinh đối với giang sơn trong hồi nghiêng đổ, ta hãy xem ông Cử bộc lộ ý chí của mình trong giảng Tà Lơn:

Lòng ta luống những ưu phiền,
Một mình trực tiết không miền gió trăng.
Trong mình cũng biết võ văn, Trãi chơi thế cuộc tiếng văn giang hà.

Hay là:

Anh hùng nghĩa khí trung cang,
Trải ô thủy thạch Lãnh trang ít người.
Tang bồng hồ thỉ đổi dời...

B. Bước Đường Tu Tỉnh

Thuở ấy tình thế Nam Kỳ hết sức rối ren nguy ngập. Một mặt Pháp bội hứa sự sửa đổi hiệp ước 5 Juin 1862 ( Bonard - Phan Thanh Giản); một mặt họ cưỡng chiếm ba tỉnh miền Tây. Thủ khoa Huân bị đày sang đảo Réunion (1864), Trương Công Định chết ở Gò Công (20-8-1864). Phan Thanh Giản tuẩn tiết ở Vĩnh Long (7-8-1867). Chỉ còn ông Nguyễn Trung Trực và một ít tàn binh lẩn lút ở Kiên Giang, với những giờ phút đầy nguy cơ, hăm dọa. Có lẽ vì vậy mà ông Cử không còn cách nào hơn là ẩn danh tu tỉnh, để chờ ngày trở lại giúp nước giúp dân. Vì ông đã nói:

Sao bằng giữ được sạch trong,
Bảng vàng chiếm đặng bướm ong sá gì.
Đem mình về chốn kinh kỳ,
Áo cơm khỏi tốn phước thì mẹ cha.

Và mục đích hành đạo của ông là:

Hiếu trung hai chữ phụng thờ,
Lâm tòng giữ tánh đặng nhờ tấm thân.

Khắp các ngọn núi trong vùng Thất Sơn đều có bước chân ông lui tới. Cuộc đời tu tỉnh của ông Cử tưởng cũng được yên ổn nơi đây, nhưng bỗng một hôm, tung tích của ông bị phát lộ; quân Pháp ở đồn Cây Mít (Châu Đốc) kéo đến bao vây; vì thương dân chúng vô tội quanh vùng nên ông không nỡ chống lại, bèn từ giã một số đệ tử thuần thành, rời khỏi Thất Sơn, ra hòn Phú Quốc (Hà Tiên) (2).

Việc quân Pháp theo dõi ông Cử để khủng bố những người tu theo giáo phái của ông hồi ấy chắc là gắt gao lắm. Xem như Giảng Tà Lơn đã chép:

Dọn thuyề hai chiếc một khi,
Sắm sửa vậy thì đồ đạc đem ra.
Hai Võ phân nói thiệt thà:
"Kinh kệ áo dà để lại chốn đây,
E khi đi có gặp Tây,
Nó coi thấy đặng sáp bây không còn."
Tính thôi đã một buổi tròn,
Xuống thuyền ra biển hởi còn canh hai!

Ở Phú Quốc một độ, ông vượt đường qua Giang Thành rồi lên núi Tà Lơn. Tại đây, ông Cử được gặp minh sư chân truyền đạo pháp và đặt cho đạo hiệu là Ngọc Thanh:

Hắc y đổi lại cà sa,
Cải tên đặt lại hiệu là Ngọc Thanh.

Từ đây, ông Cử có thâu nhiều tín đồ ở núi Tà Lơn, và lâu lâu lại trở về Thất Sơn thăm các đệ tử cũ. Ông thường dặn bảo tín đồ rằng nếu không có mệnh lệnh thì không một ai được bạo động gì cả.

Thế rồi từ ấy trở đi, không còn ai biết được tăm hơi gì về ông nữa. Cho đến ngày tháng ông Cử đăng tiên, cũng không tìm hỏi ra đâu được. Chỉ có lời truyền khẩu rằng từ ngày vắng bóng vị Giáo chủ, thỉnh thoảng có người thấy một ông già râu tóc bạc phơ, mặt non mơn mởn, cởi hổ mun vượt rừng qua lại trong dãy Thất Sơn. Người ta thì thầm bảo nhau: Ông già ấy là ông Cử!

C. Môn Nhơn Đệ Tử

Trong hàng môn nhơn đệ tử của ông Cử ở vùng Tà Lơn và Thất Sơn kể ra cũng nhiều, nhưng chỉ có ông Nguyễn Ngọc Minh và ông Trần Bá Lương (tục gọi ông Hai Lương, quê ở tỉnh Bến Tre), là được phép bí truyền nhiều hơn hết. Hiện nay mộ phần của ông Nguyễn Ngọc Minh còn thấy ở điện Kim Quang Thành (núi Tà Lơn, phía trên Trung Tòa độ bốn trăm thước). Những con cháu của tín đồ ông Cử ngày nay mỗi khi trần thiết sự thờ phượng thì không quên đặt bài vị của ông Nguyễn Ngọc Minh ở một bên, phía dưới bàn thờ của ông Cử. Chắc sinh thời ông Minh đã kế chí Thầy, tế trợ quần sinh nên mới được người đời mãi còn cảm ghi ân đức như thế.

D. Vài Mẩu Chuyện Thử Lòng

Những đệ tử nào có thành tâm tu tỉnh nhứt lại là người thường bị ông Cử thử thách nhứt, như trường hợp của ông Trần Bá Lương (một đại đệ tử của ông Cử) kể lại sau đây là một:

Ông Lương từ ngày rời nhà ra đi, lòng chí dốc tìm chân sư để học hỏi sự tu hành, bởi ông đã phát được bồ đề tâm từ khi còn nhỏ. Ông đi khắp đó đây trong vùng Thất Sơn, nghe đây có ông Cử là bậc siêu phàm nhưng lúc ấy đã về bên núi Tà Lơn. Ông không quản ngại khó khăn, băng rừng lội suối, lắm khi hết tiền hết gạo, ông phải làm thuê mướn dọc đường để kiếm tiền độ thân. Nhưn gkhi đến Tà Lơn ông ở đó ngót năm mà không tìm đâu ra được ông Cử.

Tuy thế, ông Lương không hề thối chí, cứ thành tâm khấn nguyện với Phật Trời rồi lang thang đi tìm mãi. Bỗng một hôm, ông gặp được một cụ già có vẻ đạo mạo đang xuống lấy nước ở bờ suối. Ông Lương mừng lắm, tự nghĩ: quần nâu áo ải, độc thân ở chốn lâm tuyền lậu hạn, cụ già này không phải là Tiên Phật thì còn ai! Bèn xin chỉ dẫn về đưòng đạo đức. Cụ già một mực chối từ, bảo rằng cụ cũng chỉ là một phàm nhân, không hiểu chi về việc luyện đạo. Ông Lươn gkhông nghe, xin cho ở đấy cùng tu và giúp đỡ những công việc nặng nề cho ông cụ. Túng lắm, cụ già ấy mới bằng lòng cho ở, nhưng cũng cứ một mực bảo rằng  mình không phải là bậc siêu nhân.

Từ đấy ôn gLương lấy làm vui dạ, vì tuy chưa được cụ già ấy truyền dạy điều gì, nhưng ông vẫn tin nơi ý nghĩ của mình là đúng nên cứ đặt hết lòng kính cẩn, yên trí tu trì, giúp những công việc hằng ngày cho cụ già: nào trồng khoai, gánh nước, nào thổi lửa, nấu cơm...

Trải một thời gian như thế ôn gLương vẫn vững được lòng. Tình lình một đêm kia, cụ già kêu ông Lương lại, nói rõ gốc tích của mình từ lúc ở Trung mới vào Nam, bởi theo đuổi một chí lớn mà tấm thân cơ hồ tan tác thế nào, và khi đến Thất Sơn ra sao, nhứt nhứt cụ kể rành mạch, rồi kết luận rằng mình là Nguyễn Đa, bằng lòng thừa nhận ông Lương từ đây được vào hàng đệ tử.

Và dưới đây là một cuộc thử thách có huyền thuật:

Ông Cử có một người đệ tử (không rõ tên) đạo đức khá cao, cũng không kém ông Nguyễn Ngọc Minh và ông Trần Bá Lương. Khi sắo đăng tiên, ông Cử kêu người đệ tử ấy lại mà bảo:

- Thầy sắp về nơi tiên cảnh, vậy con ở lại rán cố chí hành đạo, khi nào thông đạt, Thầy sẽ trở về dẫn độ con.

Người đệ tử kia rất đổi đau lòng, nằm phục xuống đất van cầu thảm thiết, xin Thầy cho theo.

Trước tình cảnh sư đệ sẽ phải chia ly và sự thành lòng của kẻ môn nhơn như thế, ông Cử động lòng từ bi, hứa sau ba năm sẽ trở về, nếu người đệ tử này hết lòng tu tỉnh thì ông hoá độ.
Từ đó, người đệ tử ông Cử cứ vâng lời Thầy, ở lại cố gắng tu trì, chuyên lo tĩnh luyện, và ngoài những thời khắc bái sám hành hương, người còn lo phát thuốc cứu đời để biể thị cái hành động tế thế của Thầy, không cho gián đoạn.

Một hôm, cũng như thường lệ, ở dưới chân núi có chú Khách Lác (3) lên xin thuốc uống nhưng trái hẵn ngày thường, chú Khách hôm nay với hình dạng mỏi mệt, đói lả. Gặp giờ dâng cơm bửa, người đệ tử ông Cử bảo chú Khách ngồi chờ, ông cúng xong sẽ xem bịnh và giúp thuốc cho.

Thừ lúc người môn đệ ông Cử vào nhà sửa sọan đèn hương, chú Khách Lác bưng cả mâm cơm trên bàn xuống ăn sạch. Khi trở ra, người đệ tử ông Cử thấy thế cả giận, tỏ vẻ bất bình. Ngay khi ấy chú Khách đã không nhận lỗi mình, mà trái lại, còn buông ra những lời cộc cằn cương cáu là khác. Người đệ tự ông Cử không dằn được giận, xách roi rượt đánh chú Khách. Chú Khách chạy dài, khi đến bờ suối bỗng phi thân ngang qua bên suối  rồi đứng bên kia gộp đá trông qua, kêu lên:

- Hỡi đệ tử, con còn nóng quá! Hôm nay là ngày hứa hẹn Thầy định về để dẫn độ con, nhưng sự đã ra như thế này, con hãy rán kiên tâm mà tu trì thêm nữa mới được!

Nhìn sang bờ suối, chỉ thấy ông Cử nghiêm trang đứng đó mà chú Khách Lác thì đâu mất tự bao giờ. Người môn đệ biết mình đã lầm, quì xuống van lơn, nhưng ông Cử thản nhiên biến mất.

GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) Trong giảng Tà-Lơn có đoạn nói: "Quê tôi ngày rày ở tại Thuộc Nhiêu." Có lẽ khi mới vào miền Nam, ông Cử có ở lại Thuộc nHiêu một thời gian, hoặc ông có hiệp sức với ông Thủ Khoa Huân để kháng chiến nhiều trận tại Thuộc Nhiêu nên mới nói như thế.

(2) Có người nói ông Cử đi thẳng qua núi Tà Lơn, còn ở Phú Quốc thì trước khi về Thất Sơn. Chưa rõ thuyết nào đúng hơn. Xin nhờ các bậc thức giả phủ chính cho.

(3) Người ta gọi chú Khách Lác vì ông này là người khách trú, toàn thân đều bị bệnh lác lở lói.


PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG III
Các Vị Đại Đệ Tử của
Đức Phật Thầy Tây An
GS Nguyễn Văn Hầu.

I. ĐỨC CỐ QUẢN (?-1783)

A. Thân Thế

Ngài tên thật là Trần Văn Thành, làm đến chức Chánh Quản Cơ dưói triều vua Thiệu Trị và Tự Đức. Bởi có công nghiệp rất lớn lao với đời và đạo, vã lại con của Ngài là Trần Văn Nhu, cháu nội là Trần Quang Nhơn đều là những bậc đạo hạnh cao siêu, ân nhuần thiện tín, cho nên người đời sau kỉnh trọng mà gọi Ngài là Đức Cố Quản.

Ngài sanh năm nào không tìm ra được. Quê ở Cồn Nhỏ, thuộc làng Bình Thạnh Đông, tổng An Lương, tỉnh Châu Đốc. Ông Bà thân sinh ra Ngài vốn là nhà khá giả, có nhiều ruộng đất, nên khi Ngài vừa lớn lên thì được đi học chữ Nho. Ngài có khiếu thông minh, học ít biết nhiều, và khi trưởng thành, Ngài chuyên luyện rất rành về võ nghệ.

Tướng Ngài mập chắc, không cao không thấp, nước da trắng, lúc về già thường bịt một cái khăn xước bằng nhiễu điều, và mỗi khi ra trận, người ta thấy Ngài luôn luôn mặc ở ngoài một cái áo lá nhuộm màu dà.

Ngài cưới vợ tại Rạch Sa Nhiên (Sadec). Nhũ danh của bà Cố Quản là Nguyễn Thị Thạnh. Hình vóc ốm yếu, nhỏ người (1) nhưng văn võ kiêm toàn. Bà sanh hạ được sáu người con: ba trai, ba gái.Người con trưởng nam là Trần Văn Nhu (tục gọi là câu hai Nhu), và kế theo đó là Trần Thị Hè, Trần Thị Chái, Trần Thị Nên, Trần Thị Núi và cậu Trạng Bảy. Cậu này sỡ dĩ có cái đặc danh là cậu Trạng Bảy là vì cậu thứ bảy và chết hồi 7 tuổi (không ai được biết tên), và khi còn sống rất thông minh đĩnh ngộ, mặc dù tuổi còn thơ ấu nhưng đã tiên tri được nhiều việc.

B. Đánh Giặc Tần

Nhờ cái chí khí hùng tráng sẵn có từ lúc thiếu thời, lại thdêm được hun đúc nhiều bởi khí thiêng của dãy Thất Sơn hùng vĩ, nên khi có giặc Tần nhiẽu loạn ở miền biên thùy và Sóc Trăng, NGài đứng lên chieu mộ binh sĩ, rồi hiệp cùng binh lực triều đình dẹp loạn cứu dân.
Trong những trận đánh ở gần biên thùy Miên Việt, NGài có chiêu phục được hai người tướng lãnh Cao Miên là ông Bướm và ông Vôi. Ha ông này sau tu hành đạo đức khá cao làm cho uy danh Ngài càng thêm lừng lẫy.

Trong giai đoạn đánh Tần, dưới trướng Ngài còn có ông Hai Lãnh (tục gọi là Cậu Hai Gò Sặc) là người em bạn đạo, võ nghệ và pháp thuật rất cao cho nên quân trẩy đến đâu, giặc đều khiếp phục đến đó.

C. Quy Y Với Đức Phật Thầy

Khi có tin đồn Đức Phật Thầy Tây An là một vị Phật giáng phàm vừa mới đến Xẻo Môn (Long Xuyên) để trị bịnh cứu đời, Đức Cố Quản thân hành đến đó để xem hư thực. Gặp lúc bịnh nhơn đông đảo Ngài phải đợi đến ba hôm ngoài sân. Bỗng nhiên Đức Phật Thầy cho người kêu ngay vào vui vẻ hỏi chào rồi cùng Ngài chuyện vãn rất thân mật. Ngay lúc ấy, Ngài xin quy y với Đức Phật Thầy.

Khi trở về Bình Thạnh Đông, Đức Cố Quản đem chuyện gặp được Đức Phật Thầy là một bậc siêu phàm mà thuật lại cho gia quyến nghe và khuyên cùng quy y theo. Cả nhà đều đồng lòng ưng chịu.

Khi Đức Phật Thầy bị dời về An Giang, rồi vào núi Sam, Ngài thu xếp nhà cửa và giao hết ruộng vườn (hầu hết ruộng đất ở làng Bình Thạnh Đông hồi ấy là của Ngài) lại cho Nguyễn Văn Dồng (tục gọi là ông Tham ĐỒng) là người trong thân tộc rồi bỏ làng ra đi, theo đường đạo hạnh.
Có lúc Ngài đem cả gia cư lên núi Voi và về sau Ngài được Đức Phật Thầy giao cho trọng trách đi cắm bốn cây thẻ quanh vùng Thất Sơn, cùng trở về coi sóc trại ruộn Bửu Hương Các ở Láng Linh.

Trên đường đạo có thể nói Ngài là người đạo đức cao siêu, có được nhiều bí pháp chân truyền của Đức Phật Thầy truyền dạy. Cái áo lá dà và một cây cờ dà mà lúc nào người ta cũng thấy Ngài không rời xa, ấy là những bảo vật mà Ngài đã được Đức Phật Thầy huệ tứ trong khi sắp dấn thân vào vòng tên đạn để phục vụ cho nước, cho dân vậy.

D. Đánh Giặc Tây

Năm 1862, quân Pháp chiếm ba tỉnh Miền Đông (Biên Hoà, Gia Định, Định Tường) và triều đình Huế đã ký tờ hoà ước bằng lòng nhượng đứt ba tỉnh ấy cho Pháp cai trị. Các sĩ phu và dân chúng bấy giờ uất hận nổi lên chống cự, gây nên cảnh chiến tranh vô cùng khốc liệt.

Ở miền Tây tình thế cũng không kém phần nghiêm trọng, nhứt là tại tỉnh An Giang, năm 1864 có vụ ông Thủ Khoa Huân không tuân lịnh ngưng chiến của triều đình (3) nên bị bắt. Thủy Sư Dô Đốc De Lagrandière nhờ có kẻ mật báo nên hạ lịnh cho Doudart De Lagrèe từ Uodong (Cao Miên) đem tàu và đại bác đến hăm dọa nả kích vào châu thành đẻ giành lại ông Huân. Cảnh tượng đã gieo rắc sự kinh khủng trong dân chúng và nung nấu thêm sự bực tức trong lòng những người đầy khí phách, ái quốc ưu dân. Cho nên, từ đó trở đi, Đức Cố Quản chiêu mộ thêm các tay nghĩa dõng quanh miền, lập cản phá cầu, đúc rèn súng đạn, thương, đao chờ khi đối địch.

Mặt khác Ngài cho thăm dò tin tức chiến đấu của những người đồng thời ở miền Đông như ngài Phó Quản Cơ Trương Công Định và ngài Thiên Hộ Võ Duy Dương để hiểu rõ tình thế của giặc.

Đoạn này trong bài ký thuật về Đức Cố Quản, ông Vương Thông có chép:

Các quan ẩn ảnh sơn đầu,
Chiêu binh ra đánh giải sầu một phen.
Nam Kỳ có tướng quân Thiên (Thiên Hộ Dương)
Cùng quan lớn Định cầm quyền đánh Tây (Quản Định)
An Giang có một ông đây (Đức Cố Quản)
Chử dạ ngay Thầy ái quốc ưu dân.

Ngày 19-5 năm Đinh Mão (Tự Đức thứ 20, 1857) De Lagrandière đem 2000 binh đến uy hiếp tỉnh Vĩnh Long buộc ông Phan Thanh Giản phải giao luôn ba tỉnh miền Tây là An Giang, Hà Tiên và Vĩnh Long. Ông Phan Thanh Giản phải uống thuốc độc tự tử. Từ đó ba tỉnh mièn Tây đã lọt vào tay Pháp.

Đức Cố Quản tuy biết thời cơ đã đưa vận nước tới chỗ suy vi không thể nào cưỡng lại được, song vì lòng trung nghĩa, tiết tháo nên sau mấy trận đánh quyết liệt với quân Pháp khi chúng mới đến An Giang, Ngài rút lui về cứ hiểm ở Bảy Thưa (giữa Long Xuyên, Châu Đốc) đánh cầm cự mà đợi thời:

Hơn thua cũng đánh cầm chừng,
Kéo ra đầu giặc lỗi chưng quân thần (4)
Để cho Trời Đất định phân,
Làm tôi phải trả nghĩa ân cho toàn.

Nhưng chẳng được bao lâu, quân Pháp do biết được địa điểm đóng binh của Đức Cố Quản nên kéo đến vây đánh. Trận này quân của Ngài đạ bại, nhân dân nheo nhóc, binh tướng lạc loài:

Giặc vô bốn phía phủ vây,
Rập bô nó bắn gảy cây hư đồn.
Đội cai thất vía kinh hồn,
Đâm đầu mà chạy lũy đồn tan haong,
Lao xao dân lộn với quan,
Kẻ chạy về làng người lội xuống sông.
Con kêu mẹ sợ quên bồng,
Tai nghe súngbắn vợ chồng bôn phi.
Trời xui Tây thạnh Nam suy,
Biết làm sao đặng phục quy Nam trào,
Tướng binh đã dẹp đồng dao,
Người thôi lên núi, kẻ thời đầu Tây.

Sa cuộc tan rã này, Đức Cố Quản trở về Láng Linh, ẩn náu trong túp lều tranh, tu hành để đợi thời cơ thuận tiện:

Thân Ngài chẳng quản rách lành,
Ở trong láng đó lều tranh chờ thời.
Người trung đứng giữa mặt trời,
Đắng cay bao quản vận thời chớ than.

Khoảng cuối năm Nhâm Thân (1872), Ngài được sắc chỉ triều đình (?) bảo phải cầm binh chống Pháp trở lại. Thừ mạng lịnh ấy, Ngài khởi nghĩa ở Bảy Thưa, và nhiều nơi khác quanh vùng Láng Linh. Nhưng thình lình, vào ngày 21 tháng 2 năm Quí Dậu (1873) quân Pháp kéo đến bao vây ba mặt: mé sông Hậu Giang,miệt Trà Kiết phía Châu Đốc.
Thế rồi từ ấy trở đi, Đức Cố Quản biệt vô âm tín. Người ta không còn thấy Ngài ở đâu nữa.
Suốt đời của Ngài, chỉ nhứt tâm vì đạo vì dân, xả thân để đi tìm lẽ sống hạnh phúc cho người đời, Ngài quả là một vị đệ tử thứ nhứt của Đức Phật Thầy, đã nêu lên gương đại hùng đại lực và bác ái vị tha cho đời sau noi dấu. (5)

GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) Hiện giờ còn thấy di tích một cái tay áo của Bà Cố Quản, ngoài cửa tay độ chừng 3 ngón tay của người to lớn xỏ vào thì vừa chẹt

(2) Trong quyển Bổn Tuồng của ông Ba Thới có đoạn chép:
Tần hữu Phật Bướm Vôi
Hớn đa ngôi Tiên Thánh

(3) Thủ Khoa Huân đánh trận Thuộc Nhiêu (Mỹ Tho) đại bại trong đêm tháng 9-1863 nên chạy về vùng Thất Sơn ẩn trú, bị quan của triều đình bắt giam. Vì lúc này đã ký tờ hoà ước 1862 rồi nên ra lịnh ngưng chiến, ai cãi thì bị nã tróc.

(4) Có chỗ chép:
Thà thua xuống láng xuống bưng,
Nếu ra đầu giặc lỗi chưng quân thần.

(5) Tìm dọc tài liệu đầy đủ hhon trong quyển Tiểu Sử Đức Cố Quản của Nguyễn Văn Hầu, đã xuất bản.


PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG III
Các Vị Đại Đệ Tử của
Đức Phật Thầy Tây An
GS Nguyễn Văn Hầu.

I. ÔNG TĂNG CHỦ (Giữa thế kỷ thứ 19)

A. Thân Thế

Ông họ Bùi, tên thật là chi không ai biết được cho đến tấm bia trước mộ ông cũng chỉ biên là Tăng Chủ Bùi Thiền Sư mà thôi.
Có lẽ vì ông là người có công nghiệp rất lớn lao trong việc thừa mạng của Đức Phật Thầy Tây An để lập ra làng Xuân Sơn và đạo đức quá cao siêu cho nên người đời quen lệ kiêng cử mà tên ông bị quên mất!
Thấy ông có đủ tư cách một người thay mặt cho mình để truyền đạo, cùng coi sóc quanh vùng Hưng Thới và Xuân Sơn, Đức Phật Thầy đặt cho ông cái đạo hiệu là Bùi Thiền Tăng Chủ. Nhân thế người ta gọi ông là ông Tăng Chủ.

Ông không vợ không con nên chi ông xin ông Đình Tây là con người em về làm con nuôi từ khi ông Đình vừa khôn lớn.

ông Tăng hình vóc cao lớn, miệng rộng, tai dài, bàn tay buông xuống chí đầu gối, tay chân mọc lông rất nhiều, tiếng nói sang sảng mà tâm tính bao giờ cũng ôn lương thuần hậu. Có người đã ví dung mao lẫn tâm hồn ông không khác một nhân vật đời thượng cổ.

B. Ở Trại Ruộng Hưng Thới

Trong khi Đức Phật Thầy mới vào mở trại ruộng ở Hưng Thới, ông Tăng là người có công rất lớn trong việc chiêu nạp dân cư và phát phù trị bịnh. Cùng với ông Đình Tây và ông Phạm Văn Lăng là những người coi sóc công việc ruộng rẫy hồi ấy, ông Tăng còn có cái biệt tài ở chỗ thu phục được các mãnh thú, làm cho dân chúng được an ổn làm ăn, khỏi bị nạn khuấy phá.

Ông thường lui tới Phước Điền Tự (2) để trông nom mấy thửa ruộng của Đức Phật Thầy giao cho tín đồ ở làm. Ông rất siêng năng công việc, mặc dầu đã có nhiều thân chủ tình nguyện làm công quả và kính trọng ông là một bậc sư huynh, Ông vẫn không lấy đó làm cao, phàm việc gì từ nặng nhọc cho đến nhẹ nhàng, đều có tay ông nhún vào tất cả. Do đó mà có sự phật lòng giữa Ông và ông Phạm Văn Lăng (tục gọi là ông Cả Lăng.)

Theo lời của ông Trần Văn Khánh (gọi là ông Chủ Khánh) hiện giờ đag làm cố vấn cho Đạo ở làng Thới Sơn kể lại thì một hôm, ông Lăng thấy ông Tăng  vác tre bèn kêu lên nửa đùa nửa thật mà bảo:

- Ông sức lực mạnh mẽ quá mà sao vác ít như thế? Thôi hãy vào đây nghỉ với tôi, để tôi cho sáp nỏ nó vác cũng xong!

Ông Tăng tuy ngoài miệng không nói năng chi chứ trong bụng có ý hơi buồn. Ông buồn dây vì lẽ thấy ông bạn ngồi không lại hayganh tị với những công tác đắc lực của mình, chứ không phải buồn vì tiếng nói. Cho nên từ ấy trở đi, ông xử sự rất dè dặt với ông Lăng.

C. Lập Đình Xuân Sơn

Năm 1859, nghĩa là sau ngày Đức Phật Thầy diệt độ ba năm, ông thấy dân chúng trong vùng Xuân Sơn đã được trù mật, lại nhân có sự bất đồng ý kiến với ông Lăng, ông bèn đến lập một ngôi Tam Bảo tại làng Xuân Sơn, rồi cùng với ông Bùi Văn Tây về ở (chùa này lúc đầu cất trước miểu sau chùa, rồi í lâu đổi hẵn là đình.)

Tuy về đây, ông Tăng vẫn tiếp tục phát phù trị bịnh, và thỉnh thoảng có tới lui nơi chùa Phước Điền và chùa Hưng Thơí để thăm lom công việc và nhắc nhở giáo lý của Đức Phật Thầy cho anh em trong đạo nghe.

Cũng tại đình này, một hôm ông Tăng đi thăm ruộng về, trời đã tối, khi đến gần cửa ông trông thấy một con hổ nằm lù lù bên vệ đường. Thấy ông, hổ đứng dậy hẳ miệng rồi cúi đầu tỏ vẻ đau đớn lắm. Ông Tăng hiểu ý bèn hỏi:

-Chắc ngươi mắc xương đó phải không? Sao không tới đây cho sớm đặng ta cứu cho mà để đến nổi ốm o quá đổi nhu thế này vậy!

Hổ cúi đầu và phụ xuống, tỏ ý là lời nói phải.
Ông Tăng bảo:
- Nếu thật mắc xương thì hãy ngay cổ ra, ta trị cho.

Hổ vâng theo lời dạy. Ông Tăng co tay đấm vào cổ con hổ một cái. Lập tức hổ khạc lên mấy tiếng rồi trong miệg văng ra một cục xương rất lớn.

Ông Tăng cười mà bảo:
- Thôi hết rồi, hãy đi đi, từ nay ăn uống nên cẩn thận hơn, đừng hồ đồ quá ta cứ không kịp thì nguy đa!

Hổ cúi đầu vâng lời rồi lui ra. Hôm sau, hổ bắt một con heo rừng đem đến dâng cho ông Tăng mà đền ơn cứu bịnh. (3)

Từ đó, đối với các mãnh thú trong vùng Thất Sơn, ông Tăng không phải là một người thường  mà là một vị Thần linh, hay một ông chúa tể. Ông Tăng có thể truyền một lời ra, hầu hết hùm beo đều phải cứi đầu theo lịnh.

Ông độ đời và nhắc đạo được một thời gian khá lâu thì tịch tại đình Xuân Sơn vào ngày 27 tháng 10 năm Mùi, thọ được trên 80 tuổi. Hiện nay mộ ông vẫn còn ở cách đình khoảng 100 thước, có dựng bia và chép:
Đại Nam quốc, An Giang tỉnh, Tịng biên phủ, Qui Đức tổng, Thới sơn thôn.
Nguyên Tăng chủ Bùi Thiền Sư, hưởng thượng thọ.
Mùi niên, thập ngoạt, nhị thập thất nhật chi chung.


GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) Ở dưới chân núi Két xưa kia có hai làng Xuân Sơn và Hưng Thới, sau sáp nhập lại gọi là Thới Sơn.

(2) Nơi này là chỗ trại ruộng mà xưa Đức Phật Thầy để ông Sấm, ông Sét (hai con trâu), về sau  gài giao cho bà Hai Mun, nghĩa tử của Ngài đến ở.

(3) Theo lời của ông Năm Hạnh (rễ của ông Đình Tây) thì việx trị bịnh cho hổ lúc Đức Phật Thầy còn, song bằng vào lời ông Chủ Khánh và nhiều bậc phụ lão khác thì lúc đó Đức Phật Thầy đã tịch rồi và việc này xảy ra tại đình Xuân Sơn. Vậy xin chép theo thuyết của đa số.


PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG III
Các Vị Đại Đệ Tử của
Đức Phật Thầy Tây An
GS Nguyễn Văn Hầu.

IV. ÔNG BÙi VĂN TÂY (1802-1890)

A. Thân Thế

Theo mộ bia và bài vị hiện giờ còn thấy tại làng Thới Sơn (Quận Tịnh Biên, Châu Đốc) thì ông Đình Tây chính danh là Bùi Văn Tây, sanh năm Nhâm Tuất (1802), nhằm niên hiệu Gia Long nguyên niên.

Sinh quán ông ở nơi nào chưa tìm được người biết rõ. Có người nói ông gốc ở Nhơn Hoà, có kẻ lại cho ông ở Năng Gù (hai nơi đều thuộc tỉnh Châu Đốc). Nếu căn cứ theo lời người rễ của ông là ông Hồ Văn Hạnh (tục gọi Năm Hạnh), năm nay 86 tuổi, thì ông xưa kia có một người chú ruột ở tại Năng Gù. Như vậy, thuyết Năng Gù có phần đúng hơn.

Vì theo ở làm con nuôi cho người bác là ông Bùi Thiền Tăng Chủ, và được ông này giao cho coi sóc ngôi đình Xuân Sơn, cho nên người đời quen gọi là ông Đình chứ không phải chữ lót là Đình, hay ông giữ chức Hương Đình như nhiều người đã tưởng.

Ông có hai đời vợ. Bà trước (không biết tên) sanh được có một trai tên là Bùi Văn Vẹt (ở Năng Gù và đã chết). Khi vợ trước mất, ông cưới bà sau tên là Trần Thị Của ở làng Thới Sơn. Bà sau sanh hạ được một trai, ba gái. Trưởng là Bùi Văn Sửu, rồi đến Bùi Thị Lý, Bùi Thị Cơ, Bùi Thị Nhẫn, đều có chồng con quanh vùng Thới Sơn.

Ông dáng người mạnh mẽ, không cao lắm, có bề ngang, gương mặt tròn mà trắng, lúc tuổi già thì râu tốt, mặt trổ đồi mồi và lưng hơi còm.

Hồi nhỏ ông có học chữ Nho, lớn lên thì chuyên nghề ruộng rẫy. Thích ăn trầu, tánh ôn hoà nhưng quả cảm, không ưa những điều tà vạy.

Ông quy y với Đức Phật Thầy hồi năm nào không ai rõ được nhưng khi Ngài lập trại ruộng ở Thới Sơn, người ta thấy ông có đến ở đó cùng với ông Tăng Chủ và ông Phạm Văn Lăng rồi.

B. Chữa Bịnh Giúp Đời.

Là môn sinh của Đức Phật Thầy, ông cũng như các vị đại đệ tử khác biết phát phù trị bịnh và lại còn có tài đặc biệt về cách cắt nẻ nữa. Ông cắt bằng miểng chén bể, băm xuống rất sâu, và bất luận bịnh gì cũng trị được. Nhiều bịnh tà quái đem đến, ông chỉ cắt cho một người rồi mấy người khác xem thấy phải khiếp sợ, trốn về mà hết bịnh.

C. Việc Bắt Sấu Thần.

Nói đến tiểu sử ông Đình mà không kể qua việc ông vưng lịnh Đức Phật Thầy đi bắt sấu thần tưởng là một điều khuyết điểm lớn.

Theo như những người ở vùng Láng Linh đã nghe biết và kể lại thì Đức Phật Thầy một đêm kia thình lình kêu ông Đình đến mà bảo rằng: "Hiện giờ ở dưới Láng có một người đang sanh sản mà không ai tiếp giúp, vậy ông mau tới đó mà cứu hộ người ta."

Vâng lịnh Thầy, ông Đình bôn ba tìm riết đến nơi thì quả thật, có một người đàn bà đang chuyển bụng rên la trong một cái lều con giữa đồng, trong lúc chồng con không thấy một ai ở nhà hết. Ông Đình lớp nào lo chặt lau làm giường, đốn đưng dựng vách để gấp rút giúp cho người đàn bà kia kịp có chỗ nơi sanh đẻ.

Trời rạng đông, người chồng mới về đến nhà. Anh ta hay vợ đã sanh rồi và may nhờ có người đến kịp giúp đỡ thì chi xiếtvui mừng, bèn lạy tạ ơn ông Đình và kể rõ đầu đuôi rằng y tên là Xinh, vì nghèo quá nên phải đi bắt rùa, bắt rắn để bán kiếm tiền mà độ nhật.

Thoắt trông trong giỏ của Xinh, thấy có một con sấu con mình mẫy đỏ hết xem rất đẹp, ông Đình liền tỏ ý muốn mua con sấu ấy về nuôi chơi. Xinh vì cảm ơn rất hậu nên không bán, xin biếu đứt cho ông Đình. Khi trở về, ông Đình thuật lại công việc đi làm phước xong và đem khoe con sấu với Đức Phật Thầy một cách sung sướng.
Xem qua con sấu, Đức Phật Thầy biết vật ấy là con sấu thần, Ngài bảo ông Đình hãy đem mà giết đi, nếu để thì sau này nó sẽ gây tai hại cho trần gian vô kể. Ông Đình nghe vậy cũng có lòng lo, song xem đi xem lại thấy sấu đẹp quá nên không đành giết, bèn lén Thầy, đem giấu sấu vào một nơi, cột dây nơi chưn chắc chắn rồi nuôi dưỡng cẩn thận.

Được ba năm săn sóc như vậy, con sấu trở nên to lớn. Bỗng một hôm đứt dây bò đi mất. Ông Đình chẳng dám dấu Đức Phật Thầy, nên đem đầu đuôi mà bạch lại cho Ngài rõ. Nghe xong Đức Phật Thầy than thở vô cùng, Ngài mới cấp cho ông Đình một lưỡi câu, một sợi dây, một lưỡi mun và hai cây lao, dặn hãy giữ gìn phòng khi trừ con sấu ấy (1).

Trải một thời gian, gặp mùa nước nổi, con sấu ấy có trườn lên ở vùng Láng Linh, rượt bắt người vật làm cho dân chúng quanh đấy đều kinh khủng. Người ta đến báo với ông Đình, nhưng cứ mỗi lần ông mang bửu bối đến  thì sấu ấy mất tăm, không tìm đâu được.

Thấy sấu sợ uy ông Đình như vậy cho nên hễ cứ mỗi lần nó trườn lên toan làm dữ, thì dân chúng hè nhau vừa chạy vừa hô lên:

- Bớ ông Đình ơi! Ông Năm Chèo dậy (2).

Mà lạ thay! Hễ nghe được bấy nhiêu lời kêu gọi thì sấu lại lặn mất, chừng như nó hết sức ghê sợ pháp thuật của ông Đình.

Đã nhiều phen tới lui như thế mà không lần nào gặp được sấu thần. Lần chót, ông Đình lưu lại Láng Linh chờ đợi ngót nửa tháng mà sấu vẫn bặt tăm, ông bèn kêu nói giữa thanh không rằng:

- Nếu sấu thần nhà ngươi chưa tới số thì từ nay hãy yên lặng, đừng nổi lên phá hại xóm làng nữa. Còn như nếu mạng ngươi đã tận thì nên sớm chịu lịnh Trời, đừng để ta phải lâu ngày nhọc công chờ đợi!

Thế rồi từ ấy trở đi, sấu không còn trườn lên nhiễu hại lương dân nữa.

Có người nói khi Đức Cố Quản bại trận  tại vùng Bảy Thưa, nhằm mùa nước nổi, quân Pháp sau lưng bắn phá rất gấp mà trước mặt thì đế sậy dày đặc, ghe chống đi không được. Lúc ấy sấu thần bỗng nổi lên đi trước, rẽ đường rạp sậy cho thuyền của Ngài dò theo, nhờ vậy mà Ngài và binh sĩ trận ấy thoát thân mới kịp.

Sấu thần hiện giờ ở đâu và bổn phận ông Đình còn phải làm gì đối với sấu ấy nữa chăng, đại đa số quần chúng đang đánh một con dấu hỏi to tướng về vấn đề này.

D. Lúc Trở Về Già.

Để cho tiện việc ở ăn của gia quyến, ông Đình có tạo riêng một nếp nhà tranh gần đình Xuân Sơn (kế chỗ mộ phần của ông ngày nay), cách xa trại ruộng Thới Sơn độ tám trăm thước.

Lúc tuổi già, ông giao lại công việc ruộng rẫy cho các con coi sóc để chuyên lo tu luyện và cứu độ người đời. Khi Pháp đến đánh chiếm tỉnh An Giang, ông đã ngoài sáu mươi tuổi, lòng tuy nhiều phen sôi nổi với cái nghĩa tấc đất ngọn rau, nhưng nghĩ lại sức mỏn hơi tàn nên ông đành ôm hận mà gởi hồn vào mấy đoạn Kim Cang, mấy thiên sách mọt.

Ngày 23 tháng 2 năm Canh Dần (1890), ông đang mạnh, bỗng ăn uống không được trong bốn năm ngày rồi tịch, thọ được 88 tuổi (3). Trước khi tịch, ông có dặn người nhà chỉ trải một chiếc đệm trên tấm ván rồi để linh thể ông gói lại mà chôn, chứ không được tẩn liệm vào quan quách chi hết. Hiện nay mộ phần của ông còn tại làng Thới Sơn, có dựng bia và khắc những chữ:

Đại Nam quốc, An Giang tỉnh, Tịnh Biên phủ, Qui Đức tổng, Thới Sơn thôn.
Nguyên Bùi húy Tây, hưởng thượng thọ bát thập bát tuế.
Canh Dần niên, nhị ngoạt, nhị thập tam nhựt nhi chung.


GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) Hiện giờ những vật ấy còn để ở nhà ông Năm Hạnh (rễ thứ tư của ông Đình). Lưỡi câu dài một tấc bốn phân rưỡi (đo bề ngang), ngạnh bén và dài năm phân ba ly. Lưỡi mun thì bị mẻ một góc ở đít, bề dài ba tấc sáu phân, có lỗ ở hậu như cây đục tông để tra cán. Hai mũi lao nhọn và dài mỗi mũi năm tấc. Tất cả đều rèn bằng sắt. Còn sợi dây thì se tơ bằng đầu đủa ăn, bề dài hồi trước 16 thước, nhưng bây giờ đã đứt và mất đi nhiều.

(2) Người đời quan gọi "ông Năm Chèo" là ý nói sấu ấy có năm giò, nhưng hỏi ra hầu hết các bậc phụ lão ở vùng Thới Sơn và Láng Linh thì chỉ nói có ba chèo mà thôi. Bởi xưa kia ông Đình cột dây vào chân sấu chặt quá cho nên lâu ngày dây ấy siết lần, rồi đến sau đút hẵn đi một chưn, nên sấu mới thoát được.
Vậy ba chèo hay năm chèo, thuyết nào đúng hơn?  

(3) Có người nói ông tịch ở ngoài sân, trong khi đang săn sóc mấy dây trầu.


PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG III
Các Vị Đại Đệ Tử của
Đức Phật Thầy Tây An
GS Nguyễn Văn Hầu.

V. ÔNG ĐẠo NGOẠN (1802-1890)

A. Thân Thế

Ông Đạo Ngoạn nguyên danh là Đặng Văn Ngoạn, sanh năm Canh Thìn (1802) nhằm Gia Long nguyên niên, Theo quyển "Đạo Ông giảng tập" bằng văn nôm, chép theo thể lục bát, lời lẽ thận trọng đáng tin cậy nhưng không rõ tác giả là ai, thì ông Ngoạn là một trong "thập nhị hiền thủ" của Đức Phật Thầy Tây An ngày xưa. Chính thế mà thời nhân quen gọi là ông Đạo Ngoạn.

Sanh quán ông tại làng Nhị Mỹ, tổng Phong Thạnh, quận Cao Lãnh, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Kiến Phong), trong lòng sông Cần Lố, thuộc xẻo rạch Trà Bông (Đồng Tháp Mười)

Ông có ba đời vợ. Vợ đầu tiên tên Thị Nhị, vợ giữa Thị Thu, vợ sau tên Nguyễn Thị Huệ (?). Vợ đầu và vợ giữa không con. Vợ sau tức Thị Huệ ở với ông chỉ sanh được một trai là Đặng Công Hứa. Hiện nay Công Hứa còn sống, tuổi thọ được 76, nối chí cha và đang trụ trì tại chùa Trà Bông (1).

Năm ngoài 20 tuổi, ông Ngoạn còn có một bà mẹ già, một người anh và một em gái. Sau khi đã cần mẫn làm ăn lập được một khoảnh ruộng vườn khả dĩ nuôi sống đủ gia đình, ông xin phép mẹ cho thong thả tìm nơi dưỡng tánh tu tâm, vì ông cảm thấy "hột giống bồ đề của mình đã bắt đầu nảy nở." Mẹ ông thuận cho. Ông liền vào rạch Ông Bường, lựa một nơi thanh vắng để tịnh niệm.

Trong thân tộc của ông có người ghét bỏ đến cáo với làng rằng ông ngầm mưu làm chuyện bất lương chứ không phải thực tâm tu tỉnh. Làng bắt ông ra nhà việc Cây Me (bây giờ là Doi Me) để tra hỏi. Anh ông là Bổn Chính hay tin phẫn nộ vô cùng. Chính đến nhà làng phản đối rồi cũng bị bắt luôn,

Bây giờ có người bà con với ông có thế lực, đang làm chức Quản Khám tại Mỹ Trà (Cao Lãnh) đến can thiệp nên hai anh em ông được tha. Từ đó ông Ngoạn buồn lòng, lập chí về non tu tỉnh để tránh cuộc đời dua mị đê hèn của thế nhân chen lấn.

B. Đến Núi Sam

Tháng Chạp năm Canh Tuất (1850) khi biết tin Đức Phật Thầy Tây An được phép nhà cầm quyền tỉnh An Giang cho vào núi Sam truyền đạo, ông Ngoạn liền từ giả mẹ, tìm đến tận nơi để xin quy y. Với bản chất từ lương điềm đạm, mới đầu ông được Đức Phật Thầy ủy cho vào núi Voi hiệp cùng ông Bùi Văn Thân, tức Tăng Chủ Bùi Thiền Sư mmở ruộng lập nhà, cất chùa , rồi 14 tháng sau, ông được Đức Phật Thầy đòi về núi Sam hiệp cùng ông Đạo Thạch để giúp Ngài trong việc phát phù trị bịnh và xem sóc trong Chùa Tây An.

Trong thời gian ở đây, ông được Đức Phật Thầy tin yêu lắm. Đến những chuyện truyền đạo và thù tiếp với những bậc nho giả bốn phương, Đức Phật Thầy nhiều khi giao phó cho ông được trọn quyền định liệu.


C. Trở Về Trà Bông

Suốt bốn năm theo hầu hạ bên Thầy để học điều đạo nghĩa, ông Ngoạn tự thấy tâm hồn nhẹ nhõm vui tươi. Bỗng một hôm, Đức Phật Thầy kêu ông lại gần mà bảo phải trở về Trà Bông để "bảo dưỡng mẹ già" và phải "tìm nơi kết tóc" để sanh con nối hậu, vì nợ trần của ông còn nặng. Tuân lịnh Thầy, nhưng ông Ngoạn còn bịn rụn, xin nán lại ít ngày để thu xếp công việc trong chùa rồi sẽ trở về quê quán.

Chuyện bay ra ngoài, Thị Nhị là một tín đồ của Đức Phật Thầy, bấy lâu lo việc nấu nướng ở liêu sau, nghe tin bèn đến tận mặt ông Ngoạn nguyền xin trọn đời theo ông để "nâng khăn sửa trấp". Ông Ngoạn bằng lòng. Hai người dẫn nhau đến trước Đức Phật Thầy trình bày ý định và xin Ngài cho phép đi về Trà Bông.

Đức Phật Thầy nói: "Việc ấy tùy ý các con. Nhưng sau này, riêng Đạo Ngoạn phải chịu nhồi quả: nghèo nàn đến nỗi vận khố đi giữa chợ đông, khốn cùng đến nỗi trèo non lặn suối để trốn tránh, cho đến năm 60 tuổi mới được thảnh thơi nhàn hạ."

Ngày rằm tháng 7 năm Giáp Dần (1854) ông Ngoạn cùng vợ rời núi Sam, về Trà Bông viếng mẹ rồi lập một ngôi chùa tại Vàm. Từ ấy chuyên lo chữa bịnh và phổ thông mối đạo

D. Mối Oan Khiên

Với phương tiện tại gia cư  sĩ và học Phật tu Nhân, ông Ngoạn nhất đán dã thu phục được hàng ngàn tín đồ.Vì thế Thị Nhị sanh lòng lợi dụng, thâu nạp của tiền, vật thực chứa đựng đầy rương, đầy lẫm. Mặc dù Ông Ngoạn đã hết lời giảng dứt cấm ngăn, Thị Nhị vẫn làm liều không kiêng nễ chi hết.

Một ngày kia Chùa bỗng dưng phát hoả, cháy sạch của tiền mà bấy lâu Thị Nhị dành trữ. Kế tiếp, nạn binh lửa do Pháp vào chiếm đóng Nam Kỳ tràn lan khắp nơi, ông Ngoạn cũng như muôn ngàn người khác, phải đem gia đình truân chuyên lánh nạn.

Năm 1867, quân Pháp cưỡng chiếm ba tỉnh miền Tây và lập trật tự ở Nam Kỳ, ông Ngoạn trở về dựng lại chùa xưa, bổn đạo quy tụ rất đông, sự chữa trị của ông càng lúc càng linh mầu hơn trước nữa.

Phen này Thị Nhị thâu thập của tiền đem về gởi cho quyến thuộc, lại còn sanh tâm chống báng với ông Ngoạn mọi điều... Tín đồ của ông Ngoạn thấy vậy không dằn được lòng căm tức, yêu cầu ông cản ngăn. Thị Nhị thấy thế lại càng kiếm chuyện hành hung, buộc ông Ngoạn phải giao hết chùa chiền, giao hết quần áo đang mặc trong mình chớ không được chừa lại một món chi cả. Nhị viện lý là nhờ công của mình chắt mót.

Ông Ngoạn chỉ còn tay không với một chiếc quần đùi, để mặc ý cho Thị Nhị dở chùa chở đi nơi khác, ông chẳng hề hỡ môi phàn nàn than trách.

Tín đồ của ông rất đổi thương tâm, xúm nhau kẻ giúp lá người cho cây và ra công cất lại cho ông ngôi chùa khác.

Nhưng oan quả vẫn chưa thôi, Thị Nhị -sau khi dở chùa về cất ở tại giồng Tha La gần đó- lại đến bắt ông về ở. Túng quá, ông Ngoạn chẳng biết làm sao với người ngoan phụ, chẵng lẽ mình tu hành mà mãi rầy rà,, ôn gliền ẩn lánh lên miền Thất Sơn, với ý định là mong Thị Nhị quên ông hay có chồng khác đi cho ông khỏi bận.

Nhưng sau đó ít hôm, Thị Nhị dò biết được tin, bèn gom góp của tiền, lên núi Két là chỗ địa đầu của Thất Sơn, cất am ở đó để chận đón ông Ngoạn.

E. Sang Tà Lơn

Biết là chuyện không hiền, ông Ngoạn sau khi chu du cùng khắp Thất Sơn, ông kết bạn với ông Tường (không rõ người gốc tích ở đâu) rồi rũ ông này sang Tà Lơn tìm nơi tĩnh dưỡng.

Trong khoảng ở Tà Lơn, ông luyện được rất nhiều pháp thuật. Co 1bận ông bảo ông Tường đem rỗ của ông đã đan được trên non xuống Sóc Thổ  để đổi gạo về ăn. Ông Tường sợ lạc đường , lại sợ thú dữ nên từ chối không đi. Ông bảo ông Tường cứ đi, ông sẽ cho hùm thiêng dẫn lối. Ông Tường đánh bạo ra đi. Thế là quả thật, có cọp đi trước kêu chừng  và giữ gìn cho ông Tường một cách cẩn thận.

Ở Tà Lơn một độ, ngày kia thình lình ông Ngoạn rơi lụy mà bảo ông Tường rằng: "Chư thần cho tôi hay: Hiện nay ở nhà mẹ tôi đau nặng, đang nguyện vái và mong mỏi tôi về. Vậy chú liệu xem có thể một mình ở lại hay cùng về với tôi?"

Ông Tường nghe sao hay vậy chớ trong lòng bán tín bán nghi. Nhưng khi hai người về đến Trà Bông thì quả thật, thân mẫu của ông Ngoạn còn đang trầm kha trên giường bệnh.

F. Lên Núi Két

Lo thuốc thang cho mẹ vừa mạnh, ông Ngoạn lại phải nghĩ đến việc mưu sinh, vì lúc này, đúng như lời Đức Phật Thầy mách trước ngày xưa, ông Ngoạn thật nghèo nàn vất vả, chỉ có một cái khố rách che thân mà thôi. Ông phải lên núi Két hái thuốc, nấu thuốc cao, thuốc dán để đổi kiếm chút tiền nuôi mẹ và độ hồ khẩu cho mình. Hồi này Thị Nhị đã trở về giồng Tha La, ông không còn lo gì sự trở ngại lôi thôi ở núi Két nữa.

Theo tài liệu trong "Đạo Ông giảnng tập" thì khoảng nầy ông Ngoạn hiệp cùng ông Bùi Văn Thân, ông Cả Lăng, ông Chủ Dương, chấn chỉnh lại chùa chiền trong làng Hưng Thới. Và cũng chính lúc này ông bí truyền tâm pháp cho ông Từ Đọt  (hay Từ Lão) một đệ tử của Đức Phật Thầy -và dặn dò côn gviệc truyền đạo cho ông này trước khi ông Ngoạn rời khỏi Thới Sơn.

G. Dựng Lại Chùa Trà Bông

Rời Thới Sơn, ông Ngoạn trở về Trà Bông viếng mẹ. Một hôm, mẹ ông bảo rằng: Mẹ nghĩ con thì tuổi một ngày một lớn, mà mẹ thì mỗi lúc một già, nay mai mẹ nhắm mắt rồi , mẹ sẽ không vui lòng mà để con ở lại với cảnh lao đao khổ cực như vầy mãi mãi, nên mẹ đã lựa cho con một chỗ ở làng Mỹ Long, con hãy sớm mà lo lập lại cho rồi gia thất.

Vâng lời mẹ, ông Ngoạn xuống Mỹ Long cưới vợ. Bà này tên là Thị Thu: Tánh nết thuần hoà, dung tư đứng đắn. Không bao lâu bà đã lo làm lụng có một số vốn và mua muối đổi được một số lúa khá nhiều. Bà định giúp ông Ngoạn để dựng lại chùa chiền, chấn hưng đạo đức.

Nhưng Thị Nhị với tấm lòng sâu độc, đem ghe từ giồng Tha La xuống Cái Sao Hạ (Mỹ Long) a vào nhà chở hết lúa và muối mà bà Thu đã dày công dành dụm.

Thấy việc quá ngang trái, Hương Chủ Sắc là người có thế lực nhất trong vùng, đến ngăn cản và thoá mạ Thị Nhị, nhứt quyết không cho chở lúa. Ông Ngoạn thấy vậy can ông Chủ Sắc và tự nhận là nghiệp quả của ông, vì theo lời tiên tri của Đức Phật Thầy, đến năm 60 tuổi sắp lên ông mới được thong dong rỗi rãnh. Ông Chủ Sắc không biết tính sao vì không có nguyên cáo, ông đành để cho Thị Nhị tự ý tung hoành.

Nhưng trời vẫn còn tựa người lành, bà Thu lại ra sức làm lụng nuôi mẹ giúp chồng, ít lâu tiền bạc có dư, bà theo ông Ngoạn về Trà Bông cất lại ngôi chùa ngay nền ngày trước mà ông Ngoạn vì lánh Thị Nhị đã bỏ phế, và nỗ lực vun trồng ruộng phước.

Bổn đạo nghe tiếng trở về thăm viếng và nghe thuyết pháp rất đông. Nhưng công cuộc phổ truyền đạo đức đang tiến hành hiệu quả thì bỗng bà Thu mang bịnh ngặt mà qua đời. Ông Ngoạn lại phải một phen bận lòng lo lắng. Ông gia hết của cải của bà Thu cho hai người cháu là Hai Nhẫn và Bảy Truyền rồi đóng cửa mà chuyên lo kinh kệ. Năm ấy ông ngoài 50 tuổi.

H. Chữa Bệnh Thời Khí

Năm Giáp Tuất (1874), bệnh thời khí hoành hành nhiều nơi làm cho nhân dân nhộn nhàng kinh sợ không làm ăn được. Hương chức làng Nhị Mỹ thấy thế hội nhau bàn tính, rồi kéo đến chùa Trà Bông thỉnh cầu ông Ngoạn chữa trị.

Vốn sẵn lòng đạo đức, lại giỏi về khao cứu chữa bịnh này từ khi còn gần gũi bên Đức Phật Thầy, ông Ngoạn liền đem hết năng tài thi thố. Công hiệu của sự trị bịnh và quần chúng kéo tới đông đảo thế nào, thiết tưởng đoạn văn dưới đây trong tập "Đạo Ông Giảng Tập" đủ miêu tả rõ:

Đạo Ông pháp thuât gắn keo,
Ra oai Phật lực cứu điều muôn dân
Chuyển xoay kinh chú như thần
Ôn hoàng dịch khí một lần phải kiêng
Phù linh hay tợ thuốc tiên,
Phun đâu giải đó mạnh liền như xưa.
Tổng nào tỉnh ấy đều ưa,
Biết bao nhiêu kể người ta đôngvầy.
Kẻ lui người tới dẫy đầy
Dòng sông chật nức ghe cây chen luồn.

Sự đông đúc hiện giờ đến đổi làm cho quân Pháp ở Định Tường kinh sợ. Họ xuống lệnh cho nhà chức trách ở Sa Đéc quan sát coi nếu thật là gian đạo sĩ "hội dân làm loạn thì cấp tốc bắt ngay." Nhưng lúc này giới hữu quyền ở đây phần nhiều đều cảm phục uy đức của ông Ngoạn, họ mật bàn với nhau, thỉnh sắc thần đem về để sau hậu tổ chùa Trà Bông rồi báo về tỉnh đường rằng sự tụ hội đông đảo là để cầu an bá tánh và cúng thần chớ không có chi lạ. Nhờ vậy mà từ ấy sự lui tới của dân chúng mới yên. Ngày nay tại chùa Trà Bông vẫn còn để thờ Long Đình, ấy là nếp cũ ngày xưa vẫn còn noi dấu.

I. Sanh Con và Tịch Diệt

Từ khi bà Thu là vợ giữa của ông Ngoạn mất đi, ông không hề nghĩ đến việc tục huyền nữa. Nhưn gmẹ ông không nghe, thường dạy ông lấy vợ để sanh con nối hậu.

Nhớ lời Thầy xưa và tuân theo lệnh mẹ, ông Ngoạn cưới bà Nguyễn Thị Huê ở rạch Cái Vừng (thuộc làng Nhị Mỹ) về coi sóc trong ngoài và sớm hôm dưỡng nuôi từ mẫu. Bà này đức độ thanh cao, làm ăn giỏi dắn. Trong việc giúp đỡ bịnh nhân và tiếp đãi tín đồ của ông Ngoạn sau này một phần lớn nhờ ở bàn tay của bà giúp sức.

Căn cứ theo bài du ký Đế Thiên (có lẽ là của ông Đặng Công Hứa) thì năm ông Ngoạn đúg 60 tuổi, tức là năm Canh Thìn (1880), ôn gnằm mộng thấy có khổng tước bay đỗ vào lòng, rồi trong năm ấy bà Huê thọ thai và sanh hạ một trai. Nhân thấy điềm ứng chim công, ông Ngoạn theo đó mà đặt tên con là Đặng Công Hứa. Cuộc đời sóng gió của ông Ngoạn trước kia từ nay không còn có nữa. Ông sớm chiều thong thả giảng đạo xem kinh, tịnh niệm và tu bồi công đức.

Tết Canh Dần (1890), giữa lúc có tín đồ tựu về lễ Phật đông đủ, ông Ngoạn vui vẻ nói: "Trong năm nay, chúng đệ tử sẽ không còn gặp mặt ta nữa. Vậy mỗi người cứ trì tâm tạo tác phước điền, chớ khá vì chẳng ai nhắc nhở mà lảng xao bổn phận." Tín đồ nghe nói biết là lời trối nên đau đớn bịn rịn chẳng chịu ra về , ông phải đem thuyết "hữu hình tắc hoại" ra giảng giải, ai nấy mới chịu an lòng nghe theo.

Ngày 19 tháng 2 năm ấy, ông tắm gội sạch sẽ rồi ngồi niệm Phật mà tịch diệt, thọ được 70 tuổi. Tín đồ xúm nhau chôn cất và thương xót vô cùng. Có người ở lại Trà Bông đến ba năm để săn sóc và bồi đắp chung quanh nắm xương tàn của người liễu ngộ cho thoả lòng luyến tiếc.

Qua mười năm khói lửa, ngôi chùa Trà Bông đến giờ hãy còn giữa được nguyên vẹn phong độ uy nghiêm, mặc dù cây cối quanh chùa đã phải nhiều phen đương đầu với sự tàn phá của miểng bom oanh tạc.

GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) Tài liệu sưu tầm vào tháng Giêng năm 1956.


PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG III
Các Vị Đại Đệ Tử của
GS Nguyễn Văn Hầu.

VII. ÔNG ĐẠO LÃNH (Giữa Thế kỷ 19)

A. Lai Lịch

Trong cuộc dẹp loạn Chân Lạp của ông Quản Thành (1) -tức về sau Đức Cố Quản- dưới triều vua Thiệu Trị, Đức Cố Quản có một viên thuộc tướng rất tài ba và lạ lùng, làm người Chân Lạp phải lắm phen kinh sợ; thuộc tướng ấy là ông Hai Lãnh (và bây giờ người ta gọi là ông Đạo Lãnh).

Ông Hai Lãnh gốc người Việt Nam (2); không rõ họ gì. Ông còn có một tên nữa là cậu Hai Gò Sặt. Hai Lãnh võ nghệ rất cao, có thuật gồng, thông bùa thư và thông nho học.

Khoảng năm Tân Sửu (1841), Hai Lãnh gặp ông Quản Thành tại An Giang (Châu Đốc) và xin tùng quân. Từ đó, ông và ông Quản Thành là đôi bạn chí thân, thường gần gũi bên nhau để đàm văn, luận võ.

B. Khả Năng

Năm Quí Mảo (1843), ông Quản Thành mang binh đi dẹp quân phiến loạn Chân Lạp ở miền Thất Sơn. Tại trận Láng Cháy, ông Hai Lãnh giúp ông Quản Thành thành công rực rỡ là ông đã dùng tiếng Cao Miên để giảng dụ hai tướng giặc lợi hại là Bướm và Vôi về hàng.

Cũng trong năm ấy, ông Hai Lãnh cầm quân dẹp loạn Phủ Kép (3) ở Giang Thành. Ông bắt sống được nhiều tướng giặc bằng cách đi tay không một mình vào trận, không sợ gươm đao. Ông bắt giặc và trói giặc bằng một vài miếng đấm, đá xem ra như bỡn, nhưng quân giặc phải chịu thúc thủ qui hàng.

Có khi lương thực tiếp tế thiếu thốn, ông đang đi dọc đường đói lả, thấy bên trong Sóc Thổ có người nấu bánh tét trong trả to đang sôi sục gần chín, ông ghé lại, mò tay vào trả nước sôi để lấy bánh, thế mà không chút phỏng da. Người Thổ tưởng ông là thần, gọi là Tà Lãnh.

Tuy vậy, có một bận ông đi đánh giặc bị thua lạc đường, tưởng chừng mất tích, đã gây cho người thân của ông một cảnh tang tóc đau thương. Chuyện ấy hơi dài, sẽ kể ở sau.

C. Bị Giặc Bắt

Một ngày vào khoảng năm Ất Tỵ (1845), ông Hai Lãnh (4) thừa lịnh ông Quản Thành dẫn một tốp binh đi tuần sát ở mạn biên thùy Miên Việt.

Để nhẹ bớt sự băng rừng lướt bụi, tốp binh này được dùng thuyền  đưa theo đường kinh Vĩnh Tế đến đuôi làng Vĩnh Ngươn. Khi lên bộ đi được một quảng đường, thình lình bị một toán người Cao Miên rất đông ồ ra tập kích. Bởi vùng này đã được an ổn từ lâu nên quân Việt không có ý đề phòng. Bị đánh bất ngờ, binh sĩ mất tinh thần, lớp chết, lớp bỏ chạy tan vỡ hết. Riêng ông Hai Lãnh còn kẹt lại một mình, ra sức đánh chém tứ tung, nhưng quân Miên càng lúc càng đông, làm cho ông không sao thoát khỏi vòng vây được.

Cầm cự suốt buổi chiều hôm ấy, ông Hai nhờ giỏi võ nghệ, lại có thuật gồng nên mới khỏi bị hại, nhưng cũng không thể kềm hãm được nào đói, nào mệt. Thừa lúc nhá nhem tối, ông chuyển hết sức mạnh đánh quyết về một chỗ rồi vẹt đường mà chạy ra.

Màn đêm buông phủ. Tiếng la ó rền vang của quân Cao Miên lùng kiếm ông Hai dội vào mấy khu rừng già rồi tan ra thành một thứ âm thanh kinh khủng. Ông Hai Lãnh một mình thất thểu chạy đi.

Sáng ra ông thấy mình bị lạc rất xa vào lĩnh vực Cao Miên, không thể nào theo đường cũ mà trở về được, nên ông giả dạng thường nhân, vào xóm xin ăn rồi lang thang đi mãi. (5)

Tốp binh chạy thoát về được An Giang báo cho ông Quản Thành hay thì trời đã sáng.

Ông Quản Thành lập tức điểm binh kéo vào cứu viện. Nhưng đến nơi, quân dân Cao Miên đã tan mất tự bao giờ, còn ông Hai Lãnh tìm kiếm khắp nơi không thấy. Ông Quản Thành cho lịnh cắm trại ở đó để dò nghe tin tức song thất vọng. Vài hôm sau, ông buồn rầu kéo binh trở về.

Bà Hai (vợ ông Hai Lãnh), sau khi nghe được tin này, bà cùng với người con gái dẫn nhau lên tận Cao Miên tìm kiếm ông Hai. Ngót mấy tháng vượt rừng lội suối mà tuyệt nhiên không thấy tăm hơi, bà nghĩ ông Hai đã chết, nên sau rốt, bà trở về núi Phi Lai (núi Doi), ở đó chờ đợi ít lâu nữa rồi tự thiêu mình mà chết.

Ngày nay, những lúc đem thâu canh vắng, khách thập phương vãn cảnh nơi miền Thất Sơn, thỉnh thoảng còn nghe trong các chùa, am, miếu, quán hoặc dưới những túp lều tranh lụp xụp lưa thưa văng vẳng đưa ra những câu vè thơ êm ái như ru:

... Bà Hai am tự thâm tình,
Hoả thiêu thân thể , ấn hình Phi Lai ...

Khách sẽ ngậm ngùi mà nhớ ngay rằng đồng bào miền sơ cước xa xôi này vẫn còn ghi nhớ mãi cái chết đau đớn của bà Hai.

D. Quy Y và Chứng Quả

Nhưng ông Hai lại trở về.

Từ khi chạy lạc lên đất Cao Miên, ông Hai Lãnh phải sống vất vả với chuỗi ngày đe dọa, lầm than. Sau ông chạy lên tận Gò Sặt (Pursat) nương náu với mấy người bạn quen ở đây cho đến tháng Chạp năm Bính Ngọ (1846), khi vua Cao Miên dâng biểu tạ tội với nước ta, ông mới được sống tự do và lần hồi dò đường về nước.

Lúc này giặc giã đã yên, lại gặp cảnh vợ con tan tác, ông Hai cảm thấy lòng mình buồn nãn vô cùng, nên quyết xin với ông Quản Thành cho được về thong thả tìm nơi dưỡng tính, tu tâm, mặc dầu ông Quản Thành tỏ ra không đằnh lòng rời ông một phút.

Sau đó, ông Quản Thành quy y với Đức Phật Thầy Tây An và được tôn xưng là Đức Cố Quản; còn ông Hai Lãnh cũng trở thành đồ đệ  của Đức Phật Thầy với danh hiệu là ông Đạo Lãnh. Hai vị thườnh có cơ hội gặp nhau ở núi Sam, trước mặt Phật Thầy Tây An, cho đến năm Bính Thìn (1856) trở đi, nghĩa là sau ngày Phật Thầy Tây An tịch diệt, thì không ai còn gặp ông ạo Lãnh ở đâu nữa. Người ta bảo nhau rằng ông đã chứng quả trên Non Tiên.

Giờ đây đọc lại mấy vần thơ cũ của ông Hai trích trong bài thập thủ liên hườn ta sẽ hiểu qua trích thái lẫn tâm hồn ông trong những ngày chót ở chốn núi rừng sâu thẳm.

Thấy những phiền cho cuộc ở đời,
Xa tầm non nước một phương trời,
Hoa tươi trước mặt thơm tho nực,
Thú dữ bên mình nhả nhớn chơi,
Nghiêng chén hải lan vui chốn chốn,
Cụm cây trăng sở dạo nơi nơi.
Quên năm Giáp Tý năm nào cả,
Luyện thuốc linh đơn tế độ người.

Độ người thẳng tới cỏi thiên thai,
Chẳng nhuộm màu đời có mấy ai?
Giày cò đến lui trời đất rộng,
Áo sen xài xạc núi sông dài,
Cảnh vui ý hiệp son dồi phấn,
Thú lạ tình ưa đá chẳng phai,
Nghiêng ngữa cội tùng nghe tiếng gió;
Dọc ngang mặc thích thế không hay.

Thế không hay có bậc người lành,
Trên đảnh mình ngâm chữ thái bình,
Một tấm lòng nhàn mây sắc trắng,
Trăm đường tục lợi nước màng xanh,
Dạy đời hằng giữ câu vi thiện,
Tưởng đạo vui theo dạ chí thành,
Cửa Phật trau dồi công đức lớn,
Ngâm tầm mùi đạo rất tinh minh.

Cũng có người nói rằng mấy bài thơ này là do Đức Phật Thầy đọc cho ông Đạo Lãnh chép lại -Điều này chưa có gì để kiểm chứng được. (6).
  
GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) Ông Quản Thành là một chiến sĩ cách mạng Cần Vương đã kháng Pháp quyết liệt vào hậu bán thế kỷ 19. Muốn biết rõ xin xem cuốn "Cuộc Khởi Nghĩa Bảy Thưa" - Tân sanh xuất bản hay xem bài Trần Văn Thành của Nguyễn Văn Hầu đăng trên Bách Khoa  số 64 ngày 1-9-59.

(2) Có giả thiết cho rằng ông Hai Lãnh là người cha Việt mẹ Miên. Không rõ thuyết nào đúng hơn.

(3) Giặc này trước tiên nổi lên ở Kép (Kampot) rồi lần lần lấn ra nhiều nơi, cùng chung một khẩu hiệu tranh đấu và cùng chịu một mạng lệnh chỉ huy.

(4) Vì không tìm được đích xác phẩm trật  của ông Hai Lãnh là gì nên chỉ xin chép nguyên danh.

(5) Nhiều người nói sở dĩ ông Hai Lãnh có tên "cậu Hai Gò Sặt" là do trận chạy lạc này ông lên tận Gò Sặt (Pursat: sử cũ chép là Phú Túc) ở đó một thời gian khá lâu. Song cũng có người lại nói ông Hai từ nhỏ đã lên Gò Sặt. Không rõ thuyết nào đúng?

(6) Chưa biết chắc được ông Đạo Lãnh có phải là 1 trong 12 đại đệ tử của Đức Phật Thầy không. Cho nên theo sự dè dặt thường lệ, chúng tôi xin đặt tiết này ở phần cuối chương.



PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG IV
Vài Vị Đắc Đạo Trong Phái
BỬU SƠN KỲ HƯƠNG
GS Nguyễn Văn Hầu.

II. ÔNG NGUYỄN VĂN THỚI (1866-1927)

A. Thân Thế

Ông Nguyễn Văn Thới (tục gọi ông Ba Thới), sanh năm Bính Dần (1866), đời vua Tự Đức thứ 19.

Thân sinh của ông là ông Nguyễn Văn Đỏ, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Buôn, sanh được bốn người con: hai trai, hai gái. Người trưởng là Nguyễn Văn Chơi, thứ là Nguyễn Văn Thới (tức ông Ba đây), rồi thứ nữa là Nguyễn Thị Tánh và Nguyễn Thị Kẹo.

Khi ông Ba lớn lên, thân sinh của ông cưới bà Nguyễn Thị Thìn cho ông làm vợ. Bà này là con của ông Nguyễn Văn Hoá và bà Thị Nhứt, người đồng thôn. Về sau ông bà Ba sanh hạ được tám người con, nhưng mất lúc nhỏ hết bốn, nên chỉ còn biết được có bốn là ông Nguyễn Văn Tuấn, Nguyễn Văn Kiệt, Nguyễn Văn Từ và bà Nguyễn Thị Chín.

Quê quán ở làng Mỹ Trà, ấp Long Hậu, tổng Phong Thạnh, quận Cao Lãnh (Sa Đéc). Ông Ba tướng người cao lớn, nước da trắng, râu tóc nhiều, mỗi khi buông ra thì chấm đất có dư. Khi về già râu bạc và dài xuống tới rún. Tánh tình cương quyết, nóng nảy, thích ngắm kiểng, xem hoa, thường hút thuốc điếu và đôi khi cũng có ăn trầu.

Thuở nhỏ ông có học vừa hiểu biết chữ nho, lúc trưởng thành thì làm nghề thợ mộc rồi sau lại cũng biết làm nghề thợ chạm.

Bởi sống trong một gia đình cần lao kiệm phác cho nên ông Ba đã quen sự chịu khó nhọc từ buổi thiếu thời. Bình sinh việc chi ông không làm thì thôi, nếu đã làm thì làm cho kỳ được, không hề bỏ dở. Mặc dầu nóng tính, ông Ba vẫn có được một bộ óc thẩm mỹ cùng đôi bàn tay rất tinh xảo.

B. Phát Đạo Tâm

Muà đông năm Bính Ngọ (1906), ông Ba bỗng nhiên phát dạo tâm. Ông từ giã gia đình rồi thẳng lên vùng núi Sam, vô trại ruộng Thới Sơn (cạnh Thất Sơn) để tầm sư học đạo (1). Đâu đâu ông cũng nghe người đời ca tụng đạo đức cao siêu của ông Hai Trần Văn Nhu. Ông bèn trở xuống Láng Linh để tìm cho tận mặt, và sau khi biết rõ giáo lý, ông xin quy y với ông Hai.

Trở về nhà ăn Tết xong, mùa Xuân năm Đinh Mùi (1907), ông Ba dời cả gia đình về Láng cất nhà gần chùa Bửu Hương Tự. Ở đây, ông siêng năng trau giồi hạnh đạo, chất phác làm ăn, được ông Hai coi là đại đệ tử.

Một ngày nọ, ông Ba phát ra ngây ngây, ông bảo bà Ba dọn dẹp cho ông một căn phòng sạch sẽ, rồi ở luôn trong đó. Ngót ba năm dài đăng đẳng, ông Ba không đi đâu hết. Thậm chí sự tắm rửa hay đại tiểu tiện, ông để đêm đến mới đi ra. Chính trong khoảng này, ông viết được ba quyển: Vân Tiên, Thiện Tứ, Cỗ Vãng Kim Lai mà ngày nay nhiều người vẫn còn biết.

Ngày mùng một tháng Giêng (Tết năm nào không nhớ), ông Ba ra khỏi buồng. Trước khi đến viếng ông Hai, ông Ba sắm một bộ khay hộp, trong có để ba trái ớt hiểm và ở trên có để ba cây roi, rồi mới bưng vào trước mặt ông Hai mà quì xuống thọ tội, vì lẽ ba năm qua ông không làm tròn hiếu nghĩa đối với Thầy.

Lúc ấy ông Hai miễn tội, ông Ba cảm động lắm, ngâm lên hai câu Nam:

Nghiêng vai lảnh bức tờ mây,
Trung vương thổ giã Thầy ở lại (2).

Từ đây ông Ba rất sáng suốt, thấu được lẽ diệu huyền của Phật pháp, ông có một bổn phận quan trọng đối với nhà chùa.

C. Bửu Hương Tự Bị Bao Vây

Vì có sự tị hiềm của Nguyễn Văn Phẩm nên chùa Bửu Hương Tự bị nhà cầm quyền Pháp bao vây (ngày 21 tháng 2 năm Quí Sửu, 1913). Lúc ấy tuy ông Ba thoát khỏi được, nhưng ông Hai thì phải xiêu lạc khổ sở, còn con trưởng của ông là Nguyễn Văn Tuấn lại bị bắt cùng một lượt  với 56 người đồng đạo đến cúng chùa.

Thấy tình đời đen bạc, vã lại đứng trước cảnh sư đệ rã rời, phụ tử chia ly, nên ba hôm sau (24-2-1913), vào giờ ngọ, ông Ba dùng dao cạo cắt họng để tự sát. Vết thương đứt tới phân nửa cuống họng, nhưng ông không chết. Người nhà hốt hoảng, chiều tối lại chở ông lên nhà thương Châu Đốc để điều trị. Noi đây người ta thấy tóc ông đanh nhiều nên cắt đi cho gọn rồi băng bó thuốc men nhưng ông quyết định không dùng một món chi của người Pháp. Ông cự tuyệt và gỡ bỏ hết.

Độ vài tháng sau, liệu bịnh tình ông Ba không thể chữa được, lương y cho đem bỏ ông ra nhà xác. Ông trốn được ra ngoài rồi nhờ người nhà chở về.

Từ ấy vết thương của ông Ba mỗi ngày một giảm dần, mặc dầu cuống họng chưa lành (mỗi khi ăn uống đều phải dùng khăn bó rịt lại cho khỏi rớt vật ăn ra), tinh thần ông Ba vẫn tỉnh táo sáng suốt như thường.

Thấy chùa Bửu Hương Tự bị Pháp nghi nan dò xét mãi, và liệu ở đấy không yên được nên vào khoảng tháng bảy năm Giáp Dần (1914), ông Ba dời nhà về doi Lộ Lở (làng Kiến An, tổng Định Hoà, Long Xuyên),  giả dạng người thường, ruộng rẫy làm ăn cho qua ngày.

Hồi này, người ta có thấy ông Ba lên xuống  nhà thờ Cù Lao Giêng ba lần để tiếp xúc với vị Linh mục nơi đây, và nhờ can thiệp với nhà cầm quyền Châu Đốc đặng minh oan cho công việc của Thầy mình (ông Hai Nhu) và anh em đồng đạo (3) đã bị tên Phẩm vu cáo. Nhưng việc ấy nhà cầm quyền Pháp ở Châu Đốc làm lơ.

D. Ông Ba Với Chuỗi Ngày Tàn

Tình Thầy nợ Nước, mênh mang bao mối cảm hoài, khiến tâm hồn ông Ba trong chuỗi ngày tàn hầu như tan nát. Ông ký thác lòng mình vào những quyển: Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ Đại và Thừa Nhàn mà ngày nay, mỗi khi đọc qua, ta cảm thấy ngập tràn bao nỗi  bi thương, ưu ái.

Dưới đây là một ít lời lẽ về tâm trạng của ông Ba hồi ấy:

Đêm năm canh thổn thức chẳng yên,
Ngày sáu khắc sầu riêng mối đạo.
Tưởng ái quốc cơ đồ sáng tạo,
Nhìn lê dân cường bạo đa đoan.
Chúa mỏi lòng Chúa nghỉ thân an
Tôi mệt dạ còn mang nạn cả.
Thời quân nhược quả kia báo quả,
Thế thần cường giày giã trung cang.

Hay là:

Bước chân ra đoái lại nước nhà,
Chim xanh vỡ ổ rừng già thiết tha!
Ai đi,
Nỡ chẳng tưởng quốc gia ngay thảo,
Dạ nào vong Tam Bảo giáo truyền.
Thầy ôi!
Nước nghiêng nghèo vận khéo đảo điên,
Phân ly diện sầu tuôn đoạn đoạn.

Ngoài việc sáng tác những tác phẩm kể trên ra, ông Ba còn đươn một tấm thành vọng (mặt khại), chính giữa có ba chữ triện: Quốc (hàng trên) vàThần Vọng Sư (hàng dưới), dựng ngay trước bàn thờ để biểu lộ tấm lòng ưu ái giang sơn Thầy Tổ. Tấm thành vọng này ngày nay còn thấy tại nhà con ông ở Láng Linh.

Sau mười bốn năm, kể từ khi chùa Bửu Hương Tự bi bao vây, vết thương nơi cổ ông Ba vẫn chưa lành hẵn, nó gom lại bằng mút chìa vôi nhưng trong mình ông vẫn mạnh. Một đêm kia, ông Ba kêu người nhà mà hỏi thăm giờ. Người nhà cho biết là mười giờ đêm. Ông bảo: "Bây giờ đến năm giờ sáng thì còn lâu quá!"

Thế là đúng năm giờ sáng (giờ Dần) ngày mùng 9 tháng tư năm Bính Dần (1927), ông Ba tịch. Lúc ấy ông hưởng thọ vừa đúng 61 tuổi, sau khi đã để lại cho đời 9 văn phẩm kiệt tác về đạo đức lẫn văn chương, và một tấm gương tiết tháo kiên trinh bất hoại.

Hiện giờ mộ phần của ông Ba còn tại doi Lộ Lở, được bồi đắp và có người ở săn sóc cẩn thận. Tại nền nhà cũ của ông (cũng ở Lộ Lở, gần ngôi mộ), có dựng lên một cái đền thờ rộng lớn uy nghi, hàng năm đến ngày mùng 9 tháng tư thì có hội, bá tánh thập phương đến chiêm bái rất đông.

*

Ngoài các bậc siêu phàm trong vùng Thất Sơn mà chúng tôi đã chép trên đây, còn có nhiều vị khác nữa như: Bà Hai Mun (nghĩa tử của Đức Phật Thầy Tây An), có tài trị bịnh và nuôi con (mộ phần nay còn ở sau Phước Điền Tự); ông Đạo Sang -lấy cốt trầu phun ra mà chữa bịnh và có lắm thần thông (ở đình ngả ba Cái Dầu, Châu Đốc); ông Đạo Thạch, tịch ở đình Thạnh Mỹ, khi tịch có hào quang; ông Sáu Bình, đệ tử của ông Hai Nhu, có phép đốt chân cháy thành than rồi đạp vào chỗ đau của người bịnh... nhưng chúng tôi chưa tìm ra tài liệu chính xác.

Chúng tôi đã và đang còn sưu tầm thêm nữa, để cho tiều sử của các bậc siêu phàm quanh miền rừng núi linh thiêng này mỗi ngày càng thêm đầy đủ. Vậy ở đây, chúng tôi xin hẹn lại một kỳ tái bản sau. 
  
GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) Có thuyết nói ông Ba nhân đi bán cá trên miền Láng, nghe danh ông Hai đạo đức cao siêu mà quy y theo. Nhưng theo lời ông Nguyễn Văn Tuấn là trưởng tử của ông Ba thì ông tự nhiên phát đạo tâm rồi đi tầm sư học đạo như trên đã nói.

(2) Ý nói vì ông có sứ mạng  phải lảnh bức thư vẽ mây chép sự trung thành cùng quốc vương thủy thổ cho nên mới phải giã Thầy một thời gian ấy.

(3) Lúc này ông Hai Nhu đã tịch rồi ở Trà Bang, song công việc hành đạo của giáo phái Phật Thầy bị dòm ngó rất gắt và bổn đạo tên tuổi nhiều người phải bị bắt bớ tù đày.




PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG V

LƯỢC SỬ (1)
ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
GS Nguyễn Văn Hầu.


I. Thân Thế

Tại thôn Hòa Hảo, quậtn Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (miền Nam Việt Nam), một vùng đất phì nhiêu nhờ con sông Cửu Long (Tiền Giang) hằng năm đem lại biết bao triệu tấn đất phù sa béo bở, đã ra đời một bậc vĩ nhân, năm nay (1955) được 37 tuổi.

Bậc vĩ nhân ấy là ông HUỲNH PHÚ SỔ mà người đời gọi là ông TƯ HÒA HẢO, hay ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ, còn anh em tín đồ thì tôn xưng là ĐỨC THẦY. Ngài sanh năm Kỷ Mùi (1919) và là con trai của ĐỨC ÔNG HUỲNH CÔNG BỘ và ĐỨC BÀ LÊ THỊ NHẬM, gia cư tại thôn Hòa Hảo, gần Vàm Nao lối 3 cây số ngàn.

Xưa kia, khi Đức Phật Thích Ca giáng sinh thì trước hết Ngài có quan sát năm việc như dưới đây:

1. Quan sát cơ duyên của chúng sanh đã thuần thục hay chưa thuần thục.
2. Quan sát thời kỳ đã đến hay hay chưa đến.
3. Quan sát hết thảy trong các quốc độ coi nước nào là trung tâm của cõi Ta bà này.
4. Quan sát chủng tộc nào quí thạnh hơn hết.
5. Quan sát nhơn duyên trong đời quá khứ coi người nào chơn chánh đáng làm cha mẹ.

Ngày nay, muốn hiểu rõ Đức Thầy, hãy xem những điều Ngài đã quan sát như dưới đây.

1. Nghiệp quả của chúng sanh đã mùi rồi, vì Đức Thầy có nói: "Đến ngày trả quả ầm ỳ biết bao".
2. Trong bài " Lịch sử của Đức Thầy", Đức Thầy có câu: "Vì thời cơ đã đến, lý Thiên Đình hoạch định...".
3. Trong bài " Diệu pháp quang minh", Đức Thầy viết: "Cõi Trung Ương luân chuyển phương Nam".
4. Trong bài " Nang thơ cẩm tú", Đức Thầy có câu: "Giống Hồng Lạc  kim chi ngọc diệp".
5. Xưa kia vua Tịnh Phạn vương và Hoàng hậu Ma-Da đầy lòng nhân đức mới sanh được Đức Thích Ca thì ngày nay Đức Ông và Đức Bà hẵn cũng phải là bậc nhân từ đức hạn mới sanh được Đức Thầy. Vả lại, nếu không thế thì sao toàn thể anh em tín đồ và người ngoài tôn giáo lại tôn xưng là Đức Ông, Đức Bà?

II. Từ Lúc Bé Đến Tuổi Trưởng Thành

Về tài ba thì thuở nhỏ Đức Thầy đã có vẻ xuất sắc. Học lực của Ngài không kém bạn tác.
Sau khi đậu cấp bằng Tiểu học (Certificat d'études él1mentaires) tại Tân Châu, Ngài đã phải thôi học trở về nhà giúp đỡ mẹ cha trong công việc cày bừa ruộng rẫy.

Về đức tánh thì Ngài có chỗ hơn người trong mọi trường hợp. Từ lúc bé thơ dến lúc vị thành niên, Ngài không bao giờ thích đờn địch ca xang, cải lương, hát bộ. Ngài ít trửng giỡn, nói cười, thường tìm nơi thanh vắng để mặc tưởng trầm tư.

Khi gần đến tuổi thành niên, Ngài rất hổ thẹn và phản đối ngay khi nghe nói chuyện kiếm người nội trợ cho Ngài.

Lại nữa, đã từ lâu, nhiều cơn sốt rét dữ dội làm cho Ngài ẻo lả xanh xao, mất ăn mất ngủ. Thỉnh thoảng bịnh này trở lại với chứng di tinh làm cho thân hình Ngài trở nên mảnh khảnh tiều tụy, da mặt mét xanh.

Đức Ông và Đức Bà đã hết phương chạy chữa. Nghe lương y, phù thủy nào hay cũng đến, biết đạo nhân, đạo sĩ nào giỏi cũng tìm. Trong số những ông thầy ấy có ông Lê Hồng Nhựt tục gọi Thầy Xom hay Đạo Xom  ở núi Trà Sư, một tu sĩ pháp thuật cao cường và ông Trương Anh Tuấn, tức Ba Ngoan, một tay lão luyện về khoa bùa ngãi của Thổ và Xiêm, đã từng để dấu chân trên núi Tà Lơn và các núi ở Cao Miên, giáp ranh Xiêm Quốc. Nhưng hai ông này đều đành thúc thủ khi gặp trường hợp của Đức Thầy.

Thế là trong mấy năm trường (từ 15 đến 21 tuổi) Đức Thầy mắc một chứng bệnh trầm kha mà không lương y ở vườn , ở chợ hay một ông tu sĩ ở núi, ở am trị được. Thì ra đấy là cơ hội cho các đấng thiêng liêng dọn xác Đức Thầy để cho Ngài tiếp những điển quang mạnh mẽ tinh khiết sau này. Ngài có nói với một tín đồ trọng yếu ở Bạc Liêu câu này: "Ơn trên" làm như mình súc ve cho sạch vậy.

III. Đức Thầy Dạy Đạo Độ Đời

Thế rồi ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (1939), ngày đáng ghi trong lịch sử cách mạng nước nhà, một cuộc lễ đã cử hành tại nhà Đức Ông để cho Đức Thầy "đến Linh- Khứu Sơn-Trung thọ mạng."

Lúc ấy lối 6 giờ chiều. Đức Thầy sắp hai hàng ghế bên bàn thông thiên. Xong rồi Đức Thầy mời Đức Ông ra chứng kiến cho Ngài thắp nhang mời thỉnh các đấng Thiêng Liêng về chứng cho Ngài "chịu lịnh Tây Phương thọ ký". Đoạn Ngài lạy bốn hướng. Sau rốt, Ngài day qua hướng tây lạy bốn lạy.

Thuở ấy, Đức Thầy được 21 tuổi. Mặc dầu còn bịnh, Ngài vẫn đẹp đẽ khôi ngô và trở thành một bực thông minh đĩnh ngộ văn võ song toàn, quán thông mọi việc. Ta có thể nói rằng Ngài là một bực "thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý, trung quán nhân sự".

Kể từ ngày ấy, Đức Thầy khởi sự chữa bịnh, thuyết pháp và ra kệ giảng.


GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) XIN LƯU Ý: Đây chỉ là LƯỢC SỬ của Đức Thầy. Tìm đọc quyển "Tiểu sử của ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ" đầy đủ hơn.


PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG V

LƯỢC SỬ (1)
ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
GS Nguyễn Văn Hầu.


B. Thuyết Pháp

Sau ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão, Đức Thầy nói nhiều hơn xưa, gặp ai là Ngài nói nấy. Ngài nói về sắc diện, tánh tình và tương lai. Sau rốt Ngài khuyên người làm lành lánh dữ, trau sứa tâm lành, kỉnh tin Trời Phật.

Ngài nói thật trúng, thật hay. Rất khiêm tốn, rất bình dân, Ngài không bao giờ chịu phân biệt kẻ giàu người nghèo, kẻ sang người hèn. Đãi ngộ họ như nhau, Ngài không hề khuất phục kẻ cường quyền nào và bỉ bạc một người khốn khó nào... Vì vậy nên thuở ấy người ta kêu Ngài là "Ông tướng bình dân."

Nhiều người có xu hướng cộng sản lại chất vấn Ngài. Họ lấy làm khâm phục vì Đức Thày  nói thấu "ruột gan" họ, và nói đến những việc ở bên cái xứ xa xôi kia, ở tại cái xứ đã phát huy những tư tưởng khuynh tả ấy...

Thế là trong số bá tánh thập phương tới viếng Đức Thầy, ngoài những người xin thuốc, xin bùa, xin trị bịnh lại còn có  nhiều người đến để nghe Ngài giảng giải giáo lý của Đức Thích Ca mà Ngài có sứ mạng truyền bá:

"Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn,
Xuống hạ giới truyền khai Đạo pháp".

Nhiều khi Ngài phải thuyết pháp cả ngày lẫn đêm. Thính giả tựu họp để nghe đông vô số kể. Như thế cho đến ngày 12 tháng tư năm Canh Thìn (1940) là ngày mà nhà đương cuộc Pháp ở Châu Đốc dời Ngài đi Sa Đéc. Ngôi nhà Đức Ông bỗng nhiên biến thành một ngôi chùa. Vì thế nên có lần Đức Thầy nói với Đức Ông đi lên quận xin phép đổi nó ra làm cái chùa, lấy danh hiệu là "Kim Sơn Tự"..

Với một giọng nói thanh tao êm dịu, khi bỗng lúc trầm, lưu loát mà rõ ràng, khi cao siêu khi giản dị, Ngài giảng giải cho quần chúng nghe giáo lý nhà Phật và phương pháp tu hành. Ngài thuyết pháp không vấp, không ngưng. Thật là "Miệng nhích môi đầy văn tao nhã; Hạ bút thần thơ đã đề khai."

Một nhà viết báo ở Sài Thành (ông Hiền Sĩ) nói về Đức Huỳnh Giáo Chủ trong hơn 30 bài báo, có phê bình tài hùng biện và khoa ngôn ngữ của Ngài bằng câu "thao thao bất tuyệt" và cho rằng Ngài "chiếm giài quán quân về phương diện diễn thuyết". Nhà lãnh tụ "Nhóm Tranh Đấu"  là Tạ Thu Thâu chưa chắc có thể so sánh với Đức Thầy về môn diễn thuyết và nói chuyện trước công chúng được!

Lại nữa, lời văn của Đức Thầy còn có mãnh lực hấp dẫn quần chúng một cách phi thường nên thính giả nhiều khi mủi lòng rơi lụy, liền phát bồ đề tâm, quy y đầu Phật.

Nhiều nho sĩ, văn gia, nhiều trí thức tân học đỗ cao (cử nhơn, tấn sĩ) đều bái phục Đức Thầy vì tài ba, vì đức hạnh. Thật Ngài là một bậc thượng trí anh tài, một bực "sanh nhi tri" vậy!

Trong số những tay cự phách của làng nho hoặc những nhà quyền qúy thời Pháp thuộc đã đến đọ sức thử tài hoặc tìm hiểu sở năng sở kiến của Đức Thầy, chúng tôi thường nghe kể những vị dưới đây:

1. Thầy Ba Thận

Ông này ở làng Phú Lâm (Tân Châu) và là học trò của ông Tú tài Thường (cựu học) ở làng Phú Thuận (Tân Châu). Ông có làm hai bài thơ mà ông tự cho là khéo léo vừa ý lẫn văn, tính đến thử Đức Thầy. Khi ông vừa đến thì Đức Thầy đã biết ý định của ông và trả lời ngay những điều mà ông muốn hỏi mặc dù ông chưa kịp xuất trình hai bài thơ ấy cho Đức Thầy.

2. Ô ng Lương Văn Tốt tức Thầy Bảy Tốt

Ông này ở làng Mỹ Hội Đông (Long Xuyên). Lúc ấy ông thường đến làm thi bằng Hán văn với Đức Thầy. Bữa nọ, làm không kịp Đức Thầy và nột quá ông phải rút trọn một câu trong sách thuốc Thọ Thế. Điểm mặt ông, Đức Thầy vừa cười vừa nói rằng: "Ông hết rồi nên mới rút tới câu đó".

Một hôm nọ, nhơn đọc bài "Diệu pháp quang minh" (của Đức Thầy) thấy câu "Trần Di ngủ say câu thành tựu", ông bèn nói với Đức Thầy: "Bạch Ngài, tôi e cho chữ thành tựu chưa có ai dùng. Phải chăng Ngài đã lầm lộn?" Đức Thầy bảo ông về xem lại bộ "Tứ Thơ" sẽ thấy chữ thành tựu. Ông về tìm kiếm tở mở nhưng cũng không thấy. Sau Đức Thầy có cho ông biết chữ thành tựu rút ở trong hàng chữ nhứt nhứt thành tựu(thuộc đoạn nào, bài nào Ngài có chỉ rõ).

3. Ông Huỳnh Hiệp Hòa

Ông Hoà ở làng Bình Thủy (Long Xuyên) và cũng là một bực đại gia văn chương. Ông có làm bài thơ dưới đây mà nếu chiết tự sáu câu đầu chúng ta sẽ thấy ông có ẩn ý hỏi coi Đức Thầy có phải là Trạng Trình, Cử Đa, Đề Thám chăng?

Đây là bài thi của ông Huỳnh Hiệp Hoà:

Phiến ngôn đại chấn điểm Nam cương
Khẩu tụng Văn vương vị bốc tường
Dữ thiện ngôn ngôn tùng nhứt nhị,
Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương.
Mã lai thủ thị danh thương pháp,
Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường.
Thị vấn hồi âm tri bửu hiệu,
Tứ minh tam vị hiển văn chương

Liền đó, Đức Thầy đáp họa như dưới đây:

Hồi đầu điểm đạo chuyển phong cương,
Háo thắng bi ly đạo khổ tường.
Tể tướng cam phong an diện nhị,
Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
Thiên tôn mật sát nhơn gian pháp,
Phật lý vi khai đại hội trường.
Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
Hàn lâm nhất đấu vịnh thiên chương.

Bài thơ của Đức Thầy đáp họa có hàm súc một cách khéo léo danh hiệu của Ngài.

4. Ông Nguyễn Kỳ Trân tức Chín Diệm

Ông này ở làng Định Yên (Long Xuyên) và là một bực túc nho đầy lòng ưu ái giang sơn. Thấy nước nhà đang bị nạn xâm lăng mà Đức Thấy lại đem mùi tôn giáo khuyến dụ nhơn sanh nên ông lấy làm hoang mang khó hiểu. Ông mới làm bài thơ dưới đây, đại ý nói với Đức Thầy như vầy: Giặc mạnh xâm lăng nước nhà đã mấy mươi năm rồi. Vậy chẳng biết Ngài là vị tiên chi xuống trần? Chứ ngày nay những bậc như ông Trần Hi Di (Trần Đoàn), ông Khương Thượng Tử Nha v.v... đều ẩn khuất tất cả nơi đất Bắc trời Nam, chỉ thấy hiện giờ con cá đỏ đuôi (ám chỉ cờ tam sắc) ở cùng khắp đất nước. Nếu Ngài thực là bậc anh triết thì xin Ngài hãy đả nó một cây roi thần (2).

Cường khấu xâm lăng kỷ thập niên,
Vị tri đại đức giáng hà Tiên?
Hi Di ngũ quí kim an tại,
Thái Thượng tam vương cổ bất truyền.
Độc Nhãn sa đà tàng Bắc địa,
Liên Mi chơn mạng ẩn Nam thiên.
Phòng ngư sính vĩ đương kim nhựt,
Dẫn lãnh minh lương trứ tổ tiên? (3)

Đức Thầy mới lập tức đáp họa như dưới đây:

Thiên ký Lạc Hồng đắc ngũ niên,
Sơn Trung hồi dả bí danh Tiên.
Trần nhơn đãi thế Nam tồn tại,
Lão đạo tiền phong Bắc ý truyền.
Trình mỗ ngộ kim khuê Cổ địa,
Xích mi hải hội luật trừng thiên.
Dị phi minh đế đồ tôn nhựt,
Thạnh khí đào thinh giác kỷ tiên.

Đại ý bài thơ này Đức Thầy trả lời từ câu bài thơ trên và có nói rõ danh hiệu của Ngài. Trong hai câu chuyển kết, Ngài còn nói rằng: Thời kỳ của minh đế chưa tới, chờ khi ngày giờ đã đến thì chẳng những có một cây roi, mà sẽ có biết bao nhiêu cây...

5. Ông Nguyễn Văn Lễ ở Tân Châu

Ông này là chủ quận Tân Châu thời ấy.

Khi ông vừa đến để nghe Đức Thầy thuyết pháp thì Ngài chào và nói một câu thẳng thắn rằng: "Tôi chào đây là tôi kỉnh cái đức của song thân ông (Đức Thầy kêu ông quận bằng ông chớ không kêu bằng quan lớn như người khác) vì song thân ông có tu nhân tích đức nên nay ông mới được chức trọng quyền cao. Vậy ông nên lập công bồi đức nếu ông muốn hưởng phước được lâu dài, cũng như ông chỉ có 100 đồng bạc mà muốn đi ghe đến Saigon thì dọc đường phải lo sanh phương kiếm lợi mới có thể đi đến nơi đến chốn, chớ nếu không làm gì hết  sợ e ghe vừa tới Chợ Mới là tiền đã hết rồi!"

Xin nói thêm rằng trước khi đến Hoà Hảo nghe Đức Thầy thuyết pháp, ông Chủ quận có cho người đem xe hơi đến rước Đức Thầy lên Tân Châu thuyết đạo cho ông nghe. Gặp một ông thầy khác có lẽ người ta sẽ hãnh diện tự đắc vì có mấy khi được quan Chủ quận mời rước bằng xe hơi. Nhưng Đức Thầy lại khác.  Ngài từ nan (mặc dầu bà Chủ quận đã là tín đồ từ lâu rồi), nói rằng: "Nếu ông quận đem xe hơi lại rước mà tôi đi thì tôi phải làm thế nào đối với những người đem ghe xuồng lại mời tôi? Tôi đâu có thể thiên vị kẻ giàu mà phụ bạc kẻ nghèo?"

6. Ông chủ quận Chợ Mới (Lê Tấn Nẩm)

Ông nầy cũng có phận sự đến Hoà Hảo tìm hiểu về Đức Thầy.

Sau khi chào sơ ông Chủ quận, Đức Thầy ngồi dựa ngữa trên ghế cố ý làm cho ông khách bực tức.

Ông quận Chợ Mới làm vẻ bình tĩnh hỏi Đức Thầy: "Ông đã dạy bổn đạo tu vô vi mà tại sao còn bảo họ uống giấy vàng?"

Đức Thầy đáp bằng một câu vừa để trả lời câu hỏi vừa để nói ngay tâm lý người đối thoại: "Tại họ thiếu đức tin!"

Mà thực đấy, vì họ thiếu đức tin nên phải dĩ huyễn độ chơn.

Sau khi ra về, ông quận Chợ Mới gởi lên thượng cấp của ông một bản phúc trình do đó Đức Thầy phải bị dời khỏi làng Hoà Hảo, điều mà Đức Thầy mong ước, vì:

Càng đi càng biết nhiều nơi,
Càng đem chơn lý tuyệt vời phổ thông.


GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) XIN LƯU Ý: Đây chỉ là LƯỢC SỬ của Đức Thầy. Tìm đọc quyển "Tiểu sử của ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ" đầy đủ hơn.
(2) Phải chăng là cây roi của ông Tổ Địch?
(3) Ông Nguyễn Kỳ Trân còn làm một bài nữa và Đức Thầy cũng có đáp họa đủ, nhưng ở đây chúng tôi chỉ chép bài thứ nhứt thôi.


PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG V

LƯỢC SỬ (1)
ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
GS Nguyễn Văn Hầu.


B. Thuyết Pháp

Ngoài những bậc trí thức muốn đến dò xét học lực và sở kiến của Ngài, có nhiều nhà thân hào hoặc nhiều người đã tu niệm từ lâu cũng đến coi Ngài là ai và có quyền năng gì? Trong số những vị này ta có thể kể:

1. Ông Cả Đô ở Làng Tân An (Tân Châu).

Thấy Đức Thầy chỉ ngồi trên hai cái ghế trong số tám cái để để hai bên chiếc bàn dài nên thừa lúc Đức Thầy đi ra ngoài đường, ông này liền đổi cái mà Đức Thầy thường ngồi (cũng giống hệt mấy cái ghế kia). Xong, ông đi theo Đức Thầy ra ngoài lộ và hỏi: "Bạch Thầy, người ta phải dùng nhiều tôi lương đống mới an bá tánh được, tại sao Thầy lại nói:

Như đời xưa có gã Tử Phòng
Xem thời cơ người đã rõ thông
Dùng tôi thiểu mà an bá tánh."

- Tôi nói lái đấy! Tôi thiểu là tiêu thổi! Đức Thầy đáp lại.

Thầy trò nói chuyện một chặp lâu liền trở vào nhà, đi lại hai hàng ghế, Đức Thầy dòm ông Cả Đô và vừa nói chuyện với ông, Đức Thầy cũng vừa nhắc cái ghế mà Đức Thầy thường ngồi, đổi lại cái ghế mới thay vào khi nãy, và sau khi dứt câu chuyện, Đức Thầy ngồi trên cái ghế quen thuộc một cách tự nhiên như không có gì xảy ra.

2. Ông Phan Văn Cơ ở Làng Phú Lâm (Tân Châu)

Thấy trong Sấm Giảng của Đức Thầycó câu:
 "Ngôi Tam Bảo phải thờ trần đỏ,
Tạo làm chi những cốt với hình."
thì ông này nghĩ rằng có lẽ Đức Thầy muốn nhắc nhở Đảng Hồng Nhựt của cụ Trạng Trình khi xưa, ông định đến hỏi Đức Thầy coi có phải như vậy chăng? Khi gặp Đức Thầy, ông chưa kịp hỏi thì Ngài đã trả lời với ông như vầy: "Ông đã biết rồi. Tưởng như vậy là phải rồi, hỏi làm chi nữa?"

3. Ông Nguyễn Duy Hinh (tức Xã Hinh) ở Hòa Hảo

Ông này ở cách nhà Đức Thầy không đầy 300 thước và thường tới lui nhà Ngài.

Ông thuật lại rằng ông có nghe nói trong một đêm thanh tịnh nọ, Đức Thầy, sau khi ngồi kiết dà, có tụng kinh (tụng thuộc lòng) bằng tiếng lạ (có lẽ là tiếng Nam Phạn, Bắc Phạn hoặc tiếng Tây Tạng) nhưng ông chưa đủ tin.

Một đêm kia, ông nói với Đức Thầy: "Ông làm sao cho tôi tin thì làm thử coi!" Không cần trả lời, Đức Thầy giơ một cánh tay lên trước tấm kiếng treo gần đó. Lạ kỳ thay! Trong kiếng lại hiện ra tới hai cánh tay. Đức Thầy nói với ông Xã Hinh: "Ông coi có phải khác hơn người ta chăng?"

4. Ông Hai Dùng (2) ở Hòa Hảo.

Bửa nọ ông Dùng (ở phía dưới nhà Đức Ông) lại nhà Đức Thầy và trong một câu chuyện về mùa màng, ông có nói: "Lúa năm nay (1939-Kỷ Mão) tốt quá, lên cao nghệu! Chắc sẽ trúng mùa."

- Coi vậy mà ít ngày nữa sợ e xuồng đi trong đồng không được! Đức Thầy đáp lại.

- Phải mà! Xuòng đi sao được vì lúa tốt quá, đã cao lại còn dày đặc! Ông Dùng đáp lại với một giọng ngạo nghễ.

Thế rồi, trong một ít lâu, nước lên mau quá làm ngập lút cả lúa. Đồng ruộng lênh láng như bể cả thành thử xuồng nhỏ không dám mạo hiểm đi trong đồng sợ sóng gió nhận chìm. (Năm ấy có một ghe đi đám cưới bị sóng đánh chìm, làm thiệt mạng hơn 10 người trong đồng).

5. Ông Nguyễn Văn Vàng tức Cựu Hương Sư Vàng ở Hòa Hảo.

Một bửa nọ ông này có khoe với Đức Thầy rằng: "Tôi có cuống giảng 11 hồi (3), xin đọc cho ông nghe." Đức Thầy bảo ông cứ đọc. Sau khi ông đọc một đoạn, Đức Thầy nói: "Bây giờ để tôi đọc tiếp cho ông nghe." Nói xong, Ngài dang ra xa, đọc một hồi như trước mắt có cuốn giảng ấy, và nói tiếp, "Tôi viết cuốn này mấy chục năm về trước, hồi còn ở trên Cao Miên!"

6. Ông Đạo Dùng ở Phú Lâm.

Ông Dùng là người tu niệm khá lắm. Thuở ấy (1939) tuổi ông lối 25. Lúc ông đến viếng Đức Thầy thì Ngài cười và nói với ông rằng: "Bộ bị Nhựt Bổn rượt nên mới chạy qua đây chớ gì!"

Trong khi đàm luận về việc tu hành, ông rất khâm phục Đức Thầy. Sau rốt, Đức Thầy dặn ông: "Ông hãy cố gắng làm tròn chớ đừng làm méo thì ngày sau gặp tôi!"

Sau khi ông ra về, Đức Thầy nói cho những người có mặt lúc đó biết rằng "phần" của ông khi trước có đi qua bên Tàu ở tu và bỏ xác luôn bên ấy cho nên lúc đến viếng Đức Thầy ông mặc áo chệt.

7. Ông Nguyễn Phước Còn tức Bảy Còn ở Làng Long Kiến (Long Xuyên).

Ông nầy ở gần chợ Cà Mau, thuộc làng Long Kiến (cù lao Ông Chưởng) và là cháu nội của ông Đạo Thắng (đệ tử của Đức Phật Thầy Tây An.)

Một đêm nọ ông nằm mộng thấy chư Thần mách rằng: " Phật đã giáng thế ở Hoà Hảo." Khi tỉnh dậy, ông không tin.

Lần sau, ông nằm chiêm bao thấy chư Thần cho biết: "Ngày nay Thầy đã trở về Hoà Hảo rồi, sao không lên tìm?" Thế mà ông vẫn chưa chịu tin.

Trong khi ấy thì ở Hoà Hảo Đức Thầy khuyên ông Huỳnh Văn Quốc tức Út Quốc (chú của phần xác Ngài) nên tu hiền như Đức Thầy đã dạy. Ông Út vì lúc trước thường nhờ ông Bảy Còn chữa bệnh cho mấy người con và đang tu theo giáo lý mà ông Bảy Còn đã được nội tổ truyền lại nên trả lời với Đức Thầy: "Để thủng thẳng sẽ tính." Đức Thầy nói quả quyết: "Ông cứ lo tu đi! Ông Bảy Còn sẽ lên đây cho mà coi!"

Quả thật, trong một buổi đi dạo sáng, ông Bảy Còn buồn ngủ một cách lạ kỳ. Khi trở về nhà, ông nằm mê, chiêm bao thấy như lần trước, và lần này ông bị chư Thần quở trách. Ông quyết định lên Hoà Hảo một chuyến để thử Đức Thầy.

Ông Bảy lên nhà ông Út trước. Đức Thầy bước qua nắm tay ông và nói: "Ông đợi chư Thần đòi ba lần mới chịu lên! Thôi mời ông qua nhà và đêm nay ngủ với tôi."

Ông Bảy theo Đức Thầy qua nhà Đức Ông. Đức Thầy lấy viết, viết ra bài thơ bát cú dưới đây:

Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận

Đạt Đạo hoằng khai kế nghiệp truyền,
Chư bang hành thiện hiếu vi tiên.
Ngao Du thế giới hoàn sanh chúng,
Quí tiện trí ngu trạch nhơn hiền.
Châu Di phục thỉ an bá tánh
Thượng cổ hoàn ư thế tự nhiên.
Viễn Cận chư châu quy nhứt thống,
An cư lạc nghiệp phước vô biên.

Sau khi nghe Đức Thầy đọc bài thơ này, ông Bảy vừa sửng sốt, vừa thán phục, bởi vì Đức Phật Thầy Tây An có dặn kín nội tổ ông Bảy là ông Thắng rằng sau này nếu có ai viết lại được bài thơ khoán thủ cách cú Đạt Đạo Ngao Du Châu Di Viễn Cận (viết ra chữ Hán thì tất cả 8 chữ này đều thuộc bộ xước) thì là Ngài trở lại.

Đức Thầy lại còn viết thêm bài " Bát Nhẫn" mà Đức Phật Thầy Tây An đã dán ở đầu giường và nội tổ ông Bảy chép lại trong khi vào phòng Phật Thầy để quét dọn. Bài thơ " Bát Nhẫn" ấy như vầy:

Bát Nhẫn (4)

Nhẫn năng xử thế thị năng hiền,
Nhẫn giải kỳ tâm thận thủ tiên.
Nhẫn giã hương lân hòa ý hỷ,
Nhẫn thành phu phụ thuận phi duyên.
Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
Nhẫn tánh niên niên đắc hảo tuyền.
Nhẫn đắc bình an tiêu vạn sự,
Nhẫn thành phú quý vĩnh miên miên.

Khi Đức Thầy đọc xong bài "Bát Nhẫn", ông Bảy không còn nghi ngờ gì nữa, liền bái phục Đức Thầy, nhưng Ngài đõ dậy mà nói: "Không nên! Xác thịt tôi nhỏ tuổi hơn ông nhiều, ông muốn lạy thì hãy lạy bàn Phật."

Sáng lại, ông Bảy thức sớm, và lời mà ông nói trước nhứt với ông Út là câu này: "Phải rồi! Khong còn ai khác nữa! Không còn nghi ngờ nữa được! Từ đây sẽ qui nhứt thống."

.
GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) XIN LƯU Ý: Đây chỉ là LƯỢC SỬ của Đức Thầy. Tìm đọc quyển "Tiểu sử của ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ" đầy đủ hơn.
(2) Xin lưu ý: Ông này không phải là ông Đạo Dùng ở Phú Lâm.
(3) Ấy là cuốn "Sám Giảng Người Đời" của ông Sư Vãi Bán Khoai.
(4) Trong quyển "GIÁC MÊ TÂM KỆ", Đức Thầy cũng có giảng giải về bài "Bát Nhẫn".


PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG V

LƯỢC SỬ (1)
ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
GS Nguyễn Văn Hầu.



Nói về đoạn Đức Thầy thuyết pháp giảng đạo mà không nói đến việc Ngài hay dùng cách nói lái và đồng âm dị tự tức là còn sơ sót vậy. Nếu cụ Trạng Trình ngày xưa có dùng cách nói lái trong lời tiên tri của cụ (2) thì ngày nay Đức Thầy cùng ưa dùng cách nầy trong những câu chuyện hay trong Sám giảng của Ngài.

Bà thân của anh Sáu Giúp ở thôn Phú Lâm đi Hòa Hảo nghe thuyết pháp về có thuật lại trong khi giảng đạo, Đức Thầy có nói: "Đàn bà bây giờ ưabán chồng quá!" Thấy ai cũng sửng sốt không hiểu, Đức Thầy mới nói, "Bán chồng là bóng chàng!"
Với cách nói lái trên đây, Đức Thầy đã dùng những chữ thầy tăng, tôi thiểu và nhất là câu, "Tôi là thầy tu" để nói chuyện với viên Tham Biện, Chánh Chủ Tỉnh Cần Thơ (tất nhiên là người Pháp) vào năm 1940.

Về sự dùng đồng âm dị tự, chúng tôi xin kể sau đây vài giai thoại:

1. Một hôm nọ, Đức Thầy hỏi chư tín đồ câu này: "Phải tu như con rùa hay con cua đinh?" Ai nấy đều nói phải tu như con rùa, vì thuở nay người ta  vẫn cho rằng con rùa biết tu chớ không ai nghe nói con cua đinh biết tu . Nhưng Đức Thầy nói: "Phải tu như con cua đinh vì nó có  chứ con rùa không có ." (Ý Đức Thầy muốn nói người tu phải có sự dè dặt và không nên không   đối với mọi việc gì.).

2. Lúc Đức Thầy ở Sài Gòn gần Sở Hiến Binh Nhựt, có vài tín đồ ỷ lại nơi sự che chở của quân Phù Tang nên dường như không dè dặt trong mọi hành động. Đức Thầy nói, "Hễ ỉ thì ướt" (Ỷ lại thì mang tai).

C. Ra Kệ Giảng

Đã thuyết pháp, chữa bịnh Đức Thầy lại còn viết ra nhiều cuốn Sám giảng. Những tác phẩm ấy, phần nhiều thuộc loại văn vần. Ngài viết một mạch không cần suy nghĩ và khỏi dùng giấy nháp. Ta có thể nói rằng Ngài viết mau lẹ và dễ dàng hơn cả ông Aleyone Krishnamurti  viết cuốn "Aux Pieds du Maitre." (3)

Dưới đây, xin kể sơ những tác phẩm của Đức Huỳnh Giáo Chủ:

1. Cuốn thứ nhứt nhan đề "Sám Giảng Khuyên Người Đời Tu Niệm," viết theo điệu thượng lục hạ bát hồi tháng 9 năm Kỷ Mão (1939) tại Hòa Hảo và gồm 910 câu, khởi đầu bằng câu:

Hạ ngươn nay đã hết đời.

Trong quyển này, Đức Thầy đánh thức bá tánh vạn dân bằng cách tiên tri những cảnh lầm than khốn khổ mà nhân loại phải trải qua trong thời kỳ can qua binh lửa:

Thấy đời ly loạn bất an,
Khắp trong các nước nhộn nhàng đao binh.
Ngòi buồn nói chuyen bông lông,
Khắp trong trần hạ máu hồng nhuộm rơi.

Giàu sang như nước trên nguồn,
Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ.

Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉnh ghê.
Con ngựa lại đá con ,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kêu cũng bị xáo xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng.(4)

Đời còn chẳng có mấy năm,
Khắp trong các nước thây nằm bằng non.
Cha thì chẳng thấy mặt con,
Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia.

 Đức Thầy cũng tường thuật lại việc Ngài hoá hiện ra ngfười đui cùi đói rách, buôn gánh bán bưng, khi già lúc trẻ, khi dốt lúc quê, khi nam lúc nữ, v.v... để đi dạo lục châu thử lòng bá tánh, giác tỉnh người đời bằnng vè, ca, thi giảng...

Dưới đây xin kể vài người  (trong số nhiều người) đã chứng minh những sự hoá hiện nói trong cuốn Sám giảng trên đây:

1. Ông Cựu Hương Chánh Cao Văn Viết ở thôn Bình Thạnh Đông (Châu Đốc) nhìn nhận có thấy người cùi gây lộn bằng tiếng Tây tại Châu Đốc y như trong câu "Giả ra gây lộn nói tiếng Tây!" trong quyển thứ nhất.

2. Anh Tôi ở Hoà Hảo bơi xuồng theo không kịp một ông già chèo ghe khẳm mà đi nước ngược. Ông già này có kêu anh mà nói: "Mầy ăn thịt trâu nhiều quá chèo theo tao sao nổi!" Xem lại quyển thứ nhứt, ta thấy những câu:

Ghe Điên vốn thiệt ghe be;
Mà lại Điên nhè nước ngược thẳng xông.
Ra oai thuyền chạy như dông,

3. Cô Lê Thị Cứng tức Tư Cứng ở gần nhà Đức Thầy có mất một cây lãnh và rất nhiều quần áo. Cô khóc lóc buồn rầu. Khi đó có một chiếc ghe (trong đó có bốn người) ghé lại nhà cô để coi bói. Một trong bốn người này (tức là ông thầy bói) sau khi xem xong bèn nói với cô: "Của đã mất thì thôi, cô không nên buồn rầu; vụ trộm này do bà con của cô điềm chỉ. Cô rán làm rồi sau sẽ khá bằng hai." (5)

Ở làng Hòa Hảo, ai cũng biết rằng mấy câu dưới đây (trong quyển nhứt) nói về trường hợp của cô Tư Cứng:

Có người ở xóm bằng nay
Bị mất trộm rày đồ đạc sạch trơn.
Du thần bày tỏ nguồn cơn,
Rằng người nghèo khó đang hờn phận duyên.
Điên ghe vội vã quày thuyền,
Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.
Coi rồi bày tỏ nguồn cơn,
Xin cô đừng giận đừng hờn làm chi.

Sau lại Đức Thầy sai bào đệ của Ngài là cậu Út Huỳnh Thạnh Mậu đem trao cho cô Tư Cứng hai bài thi tứ cú dưới đây. Ngài dặn nói rắng là của ông thầy coi bói hôm nọ cậy đưa cho cô:

Kích động thiện tâm lụy xót xa,
Thoàn loan trở gót dụng tiên khoa.
Khuyên giải phàm nhơn tan sầu muộn
Vật dụng gia đình khó kiếm ra.
Thương đó lòng đây rất thiết tha,
Thiên định số căn mới xảy ra.
Đoái thấy tà gian Trung Trực ghét,
Nhưng vì vận hạn chảng phui ra.

4. Ông tài công Hợi ở Hoà Hảo cũng nhìn nhận có hai người lạ mặt lại nhà ông, một người thì giã gạo, một người thì bán thuốc Sơn đông. Ông bán thuốc Sơn đông mời cô Tư Cơ mua một ve thuốc bổ trị phong và dặn nên pha với nước nóng chớ đừng pha với rượu vì nó kỵ thai. Khi đó có anh Huỳnh Văn Gọn (sau này là Đại Đội Gọn) và một người bạn của anh là anh Khâm lại coi, bảo cô này đừng mua vì anh nói thuốc Sơn đông đi bán dạo mà hay ho gì.. Lúc đó, thân phụ của anh Gọn là ông út Huỳnh Văn Quốc lại rầy anh (6). Người bán thuốc Sơn đông có nhổ răng cho một người ở xóm đúng như những câu này:

Rồi đi dạo xóm một khi,
Đi lên nhà thì giã gạo mà chơi.
Hai thằng ở xóm bằng nay,
Nó nói ngày rày thuốc chẳng có hay,
Người cha đi lại thấy rầy,
Thiệt mấy đứa nầy cãi cọ làm chi.

. . . . . . .

Xóm này kẻ ghét người ưa;
Ghé vào nhà nọ nhổ bừa cái răng.

5. Ông Lê Văn Hẳng tức Năm Hẳng ở thôn Kiến An (Chợ Mới) có nhìn nhận với chúng tôi rằng lúc đó một ông già tóc râu bạc trắng, đạo mạo khác thường có ghé nhà ông thuyết Đạo ngâm giảng (ứng khẩu) rất hay). Dị nhân ấy giảng rất nhiều, nhưng ông chỉ nhớ có hai câu khuyên ông như vầy: (7)

Mình người tu niệm vậy mà
Nói chi lớn tiếng người mà khinh khi.

Chính ông Hẳng cũng quả quyết rằng ông có cúng tiền đi non Bồng.

Mấy chuyện ấy quả thật ăn khớp với những câu dưới đây trong quyển thứ nhứt:

Có người xưng hiệu ông Quan,
Tên thiệt Vân Tràng ở dưới Dinh Ông.
Thấy đời cũng bắt động lòng,
Ghé vào tệ xá thẳng xông lên nhà.
Mình người tu niệm vậy mà
Nói chi lớn tiếng người mà khinh khi.
Người nhà cảm tạ một khi,
Cúng năm cắc bạc tiền đi non Bồng.

Điều nên để ý là:
Trong lúc mà  Đức Thầy gọi là "Đi dạo lục châu" thì Đức Ông mất chiếc ghe lườn có mui. Đức Ông cố tìm mãi mà không được. Đức Thầy lcười và cho Đức Ông bài thơ dưới đây:

 Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan,
Bửu sanh du lịch lục châu giang.
Kim Sơn thương mãi toàn lê thứ,
Thức tỉnh bá gia giấc mộng tràng.

2. Cuốn thứ nhì nhan đề "Kệ Dân của Người Khùng," viết tại Hoà Hảo theo điệu thất ngôn ngày 12  tháng 9 năm Kỷ Mão (1939) và gồm 476 câu, khởi đầu bằng câu:

Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế.

Cũng như trong quyển nhứt, ở đây Đức Thầyvừa tiên tri những tai nàn sắp đến, vừa khuyên bá tánh lánh dữ làm lành:

Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn cầu thiết thiết tha tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ ma ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa...
Trung với hiếu ta nên trau sửa,
Hiền với lương bổn đạo rèn lòng,
Thường nguyện cầu siêu độ Tổ Tông,
Với bá tánh vạn dân vô sự.
Đời Ngươn hạ nhiều người hung dữ
Nên xảy ra lắm sự tai ương...


Ngoài ra Đức Thầy không ngần ngại đánh đổ những sự mê tín dị đoan của những nhà sư chỉ chỉ dụng thinh âm sắc tướng và bồ đề chuổi hột để mê hoặc bá tánh thập phương. Dưới đây là vài lời thơ giản dị, lưu loát và đầy lương tri của Ngài:

Theo Thần Tú tạo nhiều chuông mỏ,
Mà xưa nay có mấy ai thành...
Làm hiền lành hơn tụng hơ hà,
Hãy tưởng Phật hay hơn ó ré...
Nếu làm đám được về Cực Lạc,
Thì giàu sang được trọn hai bề,
Ỷ tước quyền làm ác ê hề,
Khi bỏ xác nhiều tiền lo lót...
Những giấy tiền vàng bạc cúng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô lý...
Tu vô vi chẳng cúng chè xôi,
Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót.
Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng,
Không cầu siêu Phật bỏ hay sao?


Hơn thế nữa, Đức Thầy không
quên những bậc thượng trí thượng căn nên Ngài cũng giáo thuyết thêm những điều vừa cao siêu, vừa đầy chơn lý:

Phật tại tâm chớ có đâu xa,
Mà tìm kiếm ở nơi non núi....
Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,
Phải tìm kiếm cái không mới có.


.
GS Nguyễn Văn Hầu.
(Còn tiếp)

CHÚ THÍCH:

(1) XIN LƯU Ý: Đây chỉ là LƯỢC SỬ của Đức Thầy. Tìm đọc quyển "Tiểu sử của ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ" đầy đủ hơn.
(2) Ví dụ: Tiên tri rằng cha con thằng Khả ngày sau sẽ làm ngã mộ bia của Ngài, cụ Trạng có viết sẵn phía sau tấm bia câu này: "Cha con thằng Khả, làm ngã bia tao, làng bắt đền tam quán." Chừng bia ngã, hàng chữ lộ ra, người ta mới biết là cụ Trạng đã tiên tri việc này. Suy ra họ biết cụ Trạng nói lái và dặn làng bắt đền một quan tám.
(3) Ông A. Krishnamurti mỗi đêm phải xuất vía đến cho Thầy (một vị chơn tiên) dạy một đoạn. Sáng ra ông chép lại những lời dạy ấy. Nhiều lần như vậy mới rồi quyển sách nói trên.
(4) Đức Thầy tiên tri về cuộc Thế Giới Đại Chiến thứ hai, khởi đầu năm Kỷ Mão (Mèo, 1939), kéo dài qua các năm Thìn, Tỵ, Ngọ Mùi, Thân (Rồng, Rắn, Ngựa Dê, Khỉ: 1940, 41, 42, 43, 44) và kết thúc vào năm Dậu (Gà, 1945).
(5) Quả thật hiện giờ cô Tư Cứng khá lắm vì nhờ mua bán vải tại chợ Mỹ Lương (Hoà Hảo).
(6) Theo lời ông Út thuật lại thì sáng hôm ấy, Đức Thầy có dặn ông coi chừng phần xác của Đức Thầy. Sau khi căn dặn, Đức Thầy nằm dài trên một chiếc ghế bố (đầu day vô nhà, chơn duỗi thẳng ra ngoài đường lộ) từ sớm mai đến lối 11 giờ sáng. Lúc đó Đức Thầy nằm im lặng, ngực chỉ thoi thóp với những hơi thở yếu ớt và đều đều. Có một lần Đức Thầy mở mắt ra bảo ông Út đi hái một mớ bông trăm-063i rải chung quanh chỗ Đức Thầy nằm.
Trong khi ông Út làm phận sự "coi chừng" nói trên, ông có lẽn bước ra ngoài đường tiểu tiện. Chính trong lúc đó là lúc ông gặp anh Gọn và anh Khâm trong vụ bán thuốc Sơn đông và có rầy hai anh này.


PHẦN THỨ NHÌ
CÁC BẬC SIÊU PHÀM Ở MIỀN THẤT SƠN


CHƯƠNG V

LƯỢC SỬ (1)
ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ
GS Nguyễn Văn Hầu.


IV. VỀ VIỆC ĐỨC THẦY ĐI NÚI.

Trong thời gian còn ở lại Tổ Đình, Đức Thầy có đi núi bốn lần:

a- Đăng Sơn Kỳ Nhất.

Trong lúc kêu gọi giáo viên, các sở, các thầy hãy "giúp đời đừng đợi trả ơn, miễn tròn bổn phận hay hơn bạc vàng," Ngài cũng không quên nói đến những vị tây y sĩ:

Mấy anh thầy thuốc Lang-sa,
Cũng là mổ mật người ta lấy tiền,
Khuyên trong anh chị đừng phiền,
Đồng bạc đồng tiền là thứ phi ân.

Về việc hiếu đạo khi cha mẹ lâm chung, Ngài dạy bỏ bớt "cốc-keng, trống đờn lễ nhạc tế xen ích gì":

Bỏ bớt rình rang một khi,
Nếu cha mẹ chết làm y lời này.
Là lời truyền giáo của Thầy,
Bông hoa cầu Phật hiệp vầy đi chôn;
Còn mình muốn đãi làng thôn,
Thì là tùy ý đáp ngôn cho người.

Đức Thầy lại nhiệt liệt bài xích hạng người:

Văn minh sửa mặt sửa mày
Áo quần láng mướt ngày rày ăn chơi.
Dọn xem hình vóc lả lơi,
Ra đường ăn nói những lời nguyệt hoa.

Tại sao thế? Vì hạng người này chỉ biết chạy theo cái mới, để hào nhoáng bề ngoài rồi trở lại  chê bai hạng người xưa mà họ cho là ngu tối cũ kỹ:

Ngườì xưa nó lại khinh chê,
Ông cha hủ bại u mê hơn mình.

Nhưng mà Ngài quả quyết:


Ông cha thuở trước ngu si,
Mà ngay mà thật hơn thì đời nay.

4. Cuốn thứ tư nhan đề "Giác Mê Tâm Kệ," viết tại Hoà Hảo  ngày 20  tháng 10 năm Kỷ Mão (1939) dài 900 câu, viế`t theo điệu thất ngôn, mở đầu bằng câu: Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện.

Như trong ba cuốn đã kể trên, ở đây Đức Thầy cũng nói trước những tai họa hãi hùng mà chúng sanh phải trải qua trong đời Ngươn hạ:

Khổ với thảm ngày nay có mấy,
Sợ mai sau dòm thấy bay hồn;
Trừ tà gian còn thiện chỉ tồn,
Cảnh sông máu núi xương tha thiết,
Chừng lao xao dân chúng nước Tần,
Thì Nam quốc lương dân mới biết.

Đức Thầy lại giảng giải thế nào là tứ đổ tường, tứ khổ, ngũ uẩn, lục căn, lục trần, tứ diệu đế, bát chánh đạo và bát nhẫn.
Còn gì biểu lộ lòng từ bi hỉ xả của Đức Thầy bằng những câu sau đây mà chúng ta có thể dùng làm châm ngôn:

Ai chữi mắng thì ta giả điếc,
Đợi cho người hết giận ta khuyên.
Chữ nhẫn hoà ta để đầu tiên,
Thì đâu có mang câu thù oán,
Sự oán thù đáp lại chữ hiền,
Thì thù oán tiêu tan mất hết.
Thương quá sức nên ta bịn rịn,
Quyết độ đời cho đến chung thân,
Nếu thế gian còn chốn mê tân,
Thì ta chẳng yên vui Cực Lạc.

Và điều cần phải chú ý nhất là trong quyển này Đức Thầy cũng không quên tuyên dương những lời cao siêu về Phật pháp:

Dẹp năm tên (2) được mới mừng cười,
Vô pháp tướng mớ là pháp tướng,
Địa ngục cũng tại tâm làm quấy;
Về thiên đàng tâm ấy tạo ra;
Cái chữ tâm mà qủy hay ma,
Tiên hay Phật cũng là tại nó.
Đức Lục Tổ ít ai dám sánh,
Người dốt mà nói pháp quá rành,
Lựa làm chi cao chữ học hành,
Biết tỏ ngộ ấy là gặp Đạo.
Nếu ai mà biết chữ tu trì;
Tâm bình tịnh được thì phát huệ.

5Cuốn thứ năm nhan đề "Khuyến Thiện," viết tại Bạc Liêu  năm 1942,  dài 750 câu, viết theo điệu thất ngôn, đoạn nhứt và đoạn chót viết bằng lối văn thượng lục hạ bát.

Trong quyển này Đức Thầy nhắc sự tích Đức Phật Thích Ca và luận giải về tám sự khổ  trong cõi Ta bà, pháp môn Tịnh Độ, sự diệt ngũ trược, trừ thập ác  và hành thập thiện.

Sau rốt, Ngài kêu gọi lòng hy sinh và sự thành thật của tăng đồ nhà Phật và sự hưởng ứng của thiện nam tín nữ:

Nếu xuất gia thì phải hy sinh,
Cả vật chất tinh thần lo Đạo,
Chớ giả dối mà mang sắc áo,
Mượn bồ đề chuổi hột lòe người.

6. Cuốn thứ sáu nhan đề "Những Điều Sơ Lược Cần Biết của Kẻ Tu Hiền." Quyển này Đức Thầy viết hồi năm 1945, trong vòng tháng 5 Dương lịch, theo lối văn xuôi, (tản văn). Tuy là văn xuôi nhưng lời văn lưu loát, âm hưởng khéo dùng nên có lắm đọn đọc lên như khúc nhạc khi bỗng khi trầm...

Trong quyển này Đức Thầy minh giải về Tứ ân, tam nghiệp, thập ác và bát chánh. Ngài lại chỉ cách thờ phượng, cúng lạy, cách hành sự lúc tang lễ, hoặc cách cư xử lúc có cuộc hôn nhơn, cách đối đải với các tăng sư, chùa chiền, với các tôn giáo khác và nhân sinh. Ngài cũng khuyên tất cả mọi người nên chăm cần học hỏi để mở mang trí tuệ, nên luyện tập thể dục, giữ phép vệ sinh để tạo cho mình một sức khoẻ dồi dào ngõ hầu làm việc đạo nghĩa một cách đắc lực, nên làm những nghề lương thiện và tránh những sự tráo đấu lường cân, đầu cơ buôn lậu...

7Ngoài ra sáu quyển kể trên đây, Đức Thầy còn viết rất nhiều bài thi, bài văn mà chúng tôi đã gom góp để in thành quyển "Sưu Tập Thi Văn Giáo Lý của Đức Huỳnh Giáo Chủ". Quyển sách này dày hơn 350 trang và gồm từ những bài thi tứ cú, bát cú. ngũ ngôn, thất ngôn đến những bài trường thiên, điệu thượng lục hạ bát, lục bát gián thất, thất ngôn hay những bài văn lời lẽ hùng hồn cảm động, ý tứ bí ẩn sau xa...

Sau khi nghiên cứu và phân tách tất cả các tác phẩm của Đức Thầy, chúng ta có thể kết luận như vầy:

Trưóc hết Ngài thức tỉnh người đời rằng tuồng đời sắp hạ và mách bảo vô số tai họa thảm khốc sẽ xảy ra. Ngài nói Phật pháp cho kẻ thượng căn và chữa bệnh cho người hạ trí đặng dẫn họ trở về chánh đạo, học Phật tu Nhân, giải thoát thân tâm và giải thoát cho non sông đất nước.

.
GS Nguyễn Văn Hầu.
-------------------------------------------------------------

CHÚ THÍCH:

(1) XIN LƯU Ý: Đây chỉ là LƯỢC SỬ của Đức Thầy. Tìm đọc quyển "Tiểu sử của ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ" đầy đủ hơn.
(2) Đức Thầy ám chỉ ngũ-uẩn.