TỔ ĐÌNH TAM BỬU TỰ Ba Chúc - An giang
♠♠๑۩۞۩๑ -KỲ HƯƠNG TỰ- ๑۩۞۩๑♠♠
Trang này được thực hiện bởi các đồng đạo TỨ ÂN HIẾU NGHĨA - TIỀN GIANG

KIM CỔ KỲ QUAN - Nguyễn Văn Thới


KIM CỔ KỲ QUAN I * LỜI TỰA

NGUYỄN VĂN THỚI







KIM CỔ KỲ QUAN

NGUYỄN THIÊN THỤ 
chú giải


Tây An tự-Châu Đốc








GIA HỘI 2009












LỜI NÓI ĐẦU

Kim Cổ Kỳ Quan của ông Nguyễn Văn Thới, (1866-1926), tục danh Ba Thới, là một tác phẩm có giá trị về đạo và đời cho nên chúng tôi sưu tập để khỏi thất lạc, nhất là trong cảnh tang hải thương điền, giả thật thật giả khó phân.Tài liệu này sao chép lại của Phật giáo Hòa Hảo. Trong mục đích truyền bá chánh đạo và bảo vệ văn học Việt Nam, xin vong linh ông Ba Thới và các đạo hữu Hòa Hào chấp thuận cho Sơn Trung Thư Trang được tàng trữ tác phẩm này để tiện cho chúng tôi và độc giả nghiên cứu.

NGUYỄN THIÊN THỤ
Canada tháng 12 năm 2009.


***


TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tại miền Nam nổi lên một phong trào văn chương đại chúng. Văn chương này phát xuất từ những nông dân chất phác hoặc những hàn nho. Nội dung văn chương này có hai điểm chính : Văn chương yêu nước và văn chương tôn giáo.

Đây là lúc quân Pháp xâm chiếm Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu phải chạy về Bến Tre và sáng tác các bài văn tế Trương Công Định, văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đây cũng là lúc phát sinh các tác phẩm khác như Thơ Sáu Trọng, Thơ Năm Nhỏ, Thơ Năm Tỵ, Thơ Cậu Hai Miêng. . . thể hiện tinh thần yêu nước chống Pháp, và sinh hoạt xã hội..

Trước đó không lâu, Bửu Sơn Kỳ Hương với Đức Phật Thầy ra đời (1849), truyền xuống đến các đệ tử như Phật Trùm, Đức Bổn Sư , Sư Vãi Bán Khoai và Huỳnh Giáo Chủ . Và tại Tây Ninh, đạo Cao Đài ra đời. Hai tôn giáo Hoà Hảo và Cao Đài đã có nhiều tác phẩm tôn giáo.

Trong những tác phẩm tôn giáo Hòa Hảo như Vãn Núi Tà Lơn của ông Cử Đa, Giảng Xưa của Đức Sư Vãi Bán Khoai, Sấm Giảng của Hùynh Giáo chủ thì tác phẩm Kim Cổ Kỳ Quan có vị trí
khá quan trọng,

I. TÁC GIẢ

Tác phẩm này do ông Nguyễn Văn Thới ( Ba Thới), soạn thành. Trong Kim Cổ Kỳ Quan, ông tự giới thiệu như sau:
Quê ngụ miền Cao Lãnh 
Tôi nay Ba Thới xưng danh 
Từ theo Thầy học đạo minh thanh 
Cửu thu mãn thính danh dư tuế
(Kim cổ)

Tôi nay Ba Thới tùng Quới Mỹ-Trà
Tên Thạnh Phật bà chủ nhà Sa Đec
Nhiều người ghen ghét mở bét bạc bôi
Nhiều việc thương Vôi thương ôi ong bướm
Việc đời lụy ướm như bướm gầy ong
Tên Thành là ông Quan-Công thuở trước
Phò vua giúp nước thuở trước rất miêng
Phật Thầy Trần Nguyên dạy yên lê thứ
Trần Nhu chiếm cứ nhị tứ Láng linh
Hai Lãnh trung tinh độ tinh gò sặt
Hai Ngôn thậm ngặt oán giặt (giặc) hỏa thiêu
Căm hờn quần yêu bao nhiêu chẳng cử
Chú tư biện xử tích cử tòa chương
Nhiều việc tủ thương lưới vương Châu đốc
Hai Nhơn tử tốc vị bốc cáo trình
Nhiều việc bất bình thương tình chú bảy dám bì
(Cáo thị)

Có vài tài liệu của Hòa Hảo viết về Ông Nguyễn Văn Thới.

+Tài liệu thứ nhất: Các đại đệ tử cùa đức Phật Thầy Tây An
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_192_ArticleID_3549_.aspx
Tài liệu thứ nhất đơn giản và ghi năm sinh năm mất 1866-1927.

+Tài liệu thứ hai đơn giản, ghi năm mất là 1925.
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_310_ArticleID_4070_.aspx
+Còn tài liệu thứ ba:
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_212_ArticleID_3429_.aspx
Tài liệu này ghi năm mất 1927 và chi tiết hơn.

Cả hai tài liệu thứ hai và thứ ba nói ông thọ 61 tuổi.
Tài liệu thứ hai ghi ông mất ngày mồng chín tháng tư năm 1925. Tài liệu này ghi ngày tháng âm lịch nhưng năm lại là dương lịch.
Tài liệu thứ ba ghi ngày mồng 9 tháng tư bính dần tức là ngày thứ năm 20 tháng 5-1926.
Vậy ông mất năm 1926.

*
( Bửu Hương Tự tại Láng Linh thờ Quản Cơ Trần Văn Thành do Trần Văn Nhu xây) 



Ông Nguyễn Văn Thới tức Ba Thới là một nông dân có học chữ Hán, sinh năm bính dần (1866) đời Tự Đức thứ 19 tại làng Mỹ-Trà, ấp Long-Hậu, tổng Phong-Thạnh quận Cao Lãnh (SaĐec). Ông Ba tướng người cao lớn nước da trắng, râu tóc nhiều mỗi khi tóc buông ra thì chấm đất có dư, khi về già râu bạc và dài xuống tới rún. Tánh tình cương quyết, nóng-nảy thích ngắm kiểng xem hoa, thường hút thuốc điếu và một đôi khi cũng có ăn trầu.

Mùa đông năm Binh-Ngọ (1906), ông Ba tìm đến ông Trần Văn Nhu là con của Quản cơ Trần Văn Thành, đại đệ tử của đức Thầy Tây An, và cũng là một nghĩa sĩ chống Pháp, xin quy-y với ông Hai ở Láng-linh. Sau ông đem cả gia đình về ở nơi đây.

Trong thời gian này, ông Ba viết ba quyển: Vân-Tiên, Thiện-Từ, Cổ Vãng Kim Lai.
Vì có sự ghen ghét của Nguyễn-văn-Phẩm (1) là cháu của ông Hai Nhu đưa đến việc Bửu-Hương Tự bị nhà cầm quyền Pháp bao vây (ngày 21 tháng 2 năm Quí-Sửu 1913). Ông Ba thoát , ông Hai thì phải trốn tránh, nhưng con trai của ông ba là Nguyễn-văn-Tuấn lại bị bắt cùng một một lượt với 56 người đồng đạo đến cúng chùa.

Thấy tình đời đen bạc, vả buồn vì cảnh chùa tan nát, ba hôm sau (24-2-1913), vào giờ ngọ, ông Ba dùng dao cạo cắt họng để tự sát. Vết thương đứt tới phân nửa cuống họng, nhưng ông không chết. Người nhà hốt-hoảng, chiều tối lại chở lên nhà thương Châu-Đốc điều trị. Ông không chấp nhận việc chữa trị của người Pháp, ông cự tuyệt và gở bỏ hết. Độ vài tháng sau liệu bịnh-tình ông Ba không thể chữa được, nhà thương đem bỏ ông ra nhà xác. Ông trốn được ra ngoài rồi nhờ người nhà chở về.

Tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lở (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên), giả dạng người thường, ruộng rẫy làm ăn cho qua ngày.

Trong chuỗi ngày tàn, ông ký thác lòng mình vào những quyển : Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ-Đại và Thừa Nhàn
Ông mất vào lúc năm giờ sáng (giờ dần), ngày mùng chín tháng tư năm Bính-Dần (1927), thọ 61 tuổi. Ông để lại cho đời chín văn phẩm kiệt tác về đạo-đức lẫn văn-chương, và một tấm gương tiết-tháo kiên-trinh bất hoại.


II. NIÊN ĐẠI VÀ HIỆN TRẠNG TÁC PHẨM

Về năm viết, bản điện tử Hòa Hảo Cali đề ở đoạn cuối lời tựa:

Cất bút châu phụng tỏa (tả) một bài
Di truyền để hậu lai tường khán
“Phật ông diễn thế gian di chúc,
Tiền kỷ tái hậu vô giai”.
Từ Kỷ Dậu niên Phật Thầy truyền chí Du (vu) kim,
Nhâm ngũ niên cọng, kế cứu thập tứ niên
Nhâm ngũ niên hạ nguơn nhựt Kỷ Dậu niên tái bản.Bá nhì thập niên hậu
( 1849-1969 )

Từ Kỷ Dậu niên Phật Thầy truyền chí vu kim nghĩa là Năm kỷ dậu (1849) đức Phật Thầy khai đạo đến năm mậu ngọ ( 1858) tiếp theo là 94 năm sau mới tái bản. Vậy quyển này tái bản năm 1952.

Kỷ Dậu niên tái bản.Bá nhì thập niên hậu
( 1849-1969 ). Ở đây có sai lầm. Vì ông Ba sinh năm 1866 nên sách không thể viết hay tái bản năm 1849. Theo tiểu sử đã giới thiệu, ông Ba viết qua nhiều thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất là sau 1907 là khi ông về Láng, làm nhà gần Bửu Sơn Tự. Và giai đoạn thứ hai là trong khoảng tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lỡ (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên) và trước khi mất . Điều này là đúng vì trong Kim Cổ Kỳ Quan có câu:
" Nặng nề mang nhục chữ dân
Trung-huê Dân-quốc khó phân vùi đầu.(2)
(Thừa nhàn)

Như vậy tác phẩm này gồm chín bổn viết trong khoảng từ 1907 đến 1926, trong đó
Thừa nhàn viết sau 1912.
Giác mê viết tại Láng Bà khoảng sau 1907.
Láng bà để kiển trung quân tựu
Ngọc xuất An-giang hựu thú vui.

Cáo thị viết khi ở Láng (sau 1907):
Trần Nhu chiếm cứ nhị tứ Lang (Láng ) linh
Hai Lãnh trung tinh độ tinh gò sặt.

-In người chốn Láng ngán ỷ vinh.

Thừa nhàn là bản thứ chín:
Ngồi buồn cất bút chép riêng
Đặt làm chín bổn bình yên coi đời.

Kim Cổ: cuối bổn Kim Cổ câu:
"Ất mão niên cơ thâm nay đủ".
Như vậy, bổn Kim Cổ viết xong năm ất mão (1915).

Trong bản Kim Cổ Kỳ Quan, ở dưới các đoạn có ghi Chép xong ngày 19 tháng hai (nhuần) Năm Đinh Hợi , Châu Đốc. Đinh Hợi có lẽ là năm 1947 có tháng hai nhuần , do người đời sau chép lại và năm 1952 thì tái bản. Vậy xuất bản lần đầu năm nào?

Theo tài liệu thứ nhất, Tình Thầy nợ Nước miên man bao nỗi cảm hoài, ông ký thác lòng mình vào bộ sách Kim Cổ Kỳ Quan, gồm chín cuốn, cũng gọi chín bổn: Vân Tiên, Thiên Tứ, Cổ Vãng Kim Ca, Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ Ðại và Thừa Nhàn, toàn văn vần, tuy văn chương bình dân mộc mạc, có khi bí hiểm tiên tri, nhưng chứa đựng mối cảm hoài tha thiết tình Thầy nợ Nước, ưu đời ái đạo trong một hoàn cảnh xã hội bi đát, quốc phá gia vong, mà Phật Thầy đã nói trước về những khổ cảnh tai nạn đang chờ đợi chúng sanh trong những thời kỳ sắp tới.
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_212_ArticleID_3429_.aspx


Kim Cổ Kỳ Quan có nghĩa là Chuyện Lạ Xưa Nay. Tại Trung Quốc đã có tập truyện này viết về một số nhân vật Trung Quốc như Lý Bạch, Bá Nha, Tử Kỳ. . .Tại Việt Nam ông Ba Thới cũng đặt tên cho tác phẩm của ông là Kim Cổ Kỳ Quan để nói lên những điều ông suy nghĩ và nhìn thấy (tiên tri) về tương lai nước Việt.

Kim Cổ Kỳ Quan là tên chung 9 bổn nhưng Kim Cổ là một bổn chính, là bổn đầu trong chín bổn. Tác giả nhiều lần nhấn mạnh các chữ Kim cổ, Cổ vãng kim lai :
-Ngẩn ngơ cổ vãng, đục ngầu kim lai.
(Kim cổ)

-Tri kim cổ mới biết việc đời,
Sao người chẳng tưởng Phật Trời độ thân.
(Kim cổ, 3B Cali)

-Cổ kim lòng thế phân lìa
Bất cầu nan ngộ Phật vìa (dìa: về) độ thân

-Nói ít nghe đầy lỗ tai
Suy đời cổ vãng kim lai biết lòng
(Thừa nhàn)

-Đậu câu trúng lý nghiệm suy
Kim lai cổ vãng luận tri Phật Trời
Thuở xưa giặc mọi tơi bời
Cũng vì tham sắc như đời trào nay
Cổ kim loạn quốc Nam Tây
Cựu thù tích oán thương thay đời này
. . . . . .
Cổ vãng ngũ hổ tam hùng
Kim lai dục đắc phục tùng bá nhân
(Thừa nhàn)


Tác phẩm này ban đầu viết bằng chữ nôm, hay quốc ngữ? Chưa có tài liệu nào xác nhận và chúng ta cũng không thấy bản chánh. Chúng tôi nghĩ rằng ở thôn quê thời điểm 1920 quốc ngữ chưa phổ biến, có lẽ Kim Cổ Kỳ Quan được viết bằng chữ nôm:

Đặt nôm na lộn lạo trữ minh ( chữ mình?)
Dám khuyên thượng trí chớ khinh quê mùa.
(Kim cổ)
Nôm na chữ nghĩa lam nham
Dầu người chê dại cũng cam thửa lòng.
(Giác mê)

Tôi đặt mấy bổn không hay
Nôm na mấy lớp nói nay tật khùng.
(Thừa nhàn)

Nay thì hai nhóm Phật giáo Hòa Hảo ở Cali trình làng bản điện tử năm 2009
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_289_ArticleID_4100_.aspx
nhóm này cũng audio gồm 9 băng.
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_260_MenuID_260_.aspx

còn nhóm Texas thì giới thiệu các audio gồm 19 băng Kim Cổ Kỳ Quan phát hành 2005.www.phatgiaohoahaotexas.org/kim_co_ky_quan.htm

19 băng của nhóm Texas được phân bố như sau:

(1). Tựa: băng 1A
(2). Kim Cổ : băng 1A đến 4B
(3).Giác mê: băng 5A-5B
(4). Thừa nhàn: băng 6A-10B
Như vậy là các nhóm đều chưa có đủ bộ Kim Cổ Kỳ Quan.

Nhóm Cali nay mới trình bày được 9 băng ( từ 1A đến băng 5A) . Như vậy 19 băng của nhóm Texas là đầy đủ. Cả hai nội dung giống nhau, do các ông Lê Văn Ngợi , Nguyễn Phúc Tâm, các cô Phạm Thị Ngọc Hà , Lương Thị Khởi ngâm.

Tác phẩm Kim Cổ Kỳ Quan hoàn thành gần một trăm năm, và đã ấn hành bằng quốc ngữ trong khoảng 1945 . Đó là phỏng đoán chứ chúng tôi không thấy ấn bản đầu tiên.
Ngày nay, bản điện tử của Hòa Hảo California cho biết có 9 bổn, nhưng thiếu hai bổn cuối là Tiền giang và Kiểng Tiên. Hai bổn Kim Cổ và Bốn tuồng giống nhau trong khi audio cho thấy Kim Cổ là một bản khác.


III. NỘI DUNG TÁC PHẨM

Ông Nguyễn Văn Thới là một cư sĩ, là đệ tử của Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông còn là một học trò của Trần Văn Nhu, con của Quản cơ Trần Văn Thành. Ông lo việc đạo, ông cũng suy nghĩ về tương lai đất nước :


Cát bồi đi chẳng lấm chưn 
(Thầy ôi !)
Nước nghèo không kẻ đỡ nưng nước nghèo
Dắt ra sông rồi dắt lên đèo
(Thầy ôi ! là Thầy ôi !)
Hết cơn bỉ cực còn nghèo về đâu ?
Biển bao sâu còn thả sợi câu 
Vận thời, thời vận tới đâu bớ thầy ?
(Kim cổ) (3)

Nội dung chính của các tập là giảng đạo, khuyến thiện, nhưng xen vào đó là những lời tiên tri về tương lai đất nước. Ông không giống như Nostradamus, Trạng Trịnh chuyên việc tiên đoán tương lai. Mục đích tiên đoán của ông Ba chính là khuyến thiện, và dẫn chứng các biến cố để cho con người biết tu nhân tích đức để tránh tai nạn.

Ông cũng khác với những nhà tôn giáo đưa ra những sư kiện tận thế hay thiên đàng đia ngục thiếu cụ thể. Ông cũng nói đến tận thế, hạ nguyên nhưng tận thế không phải là chấm dứt toàn bộ. Có thể tận thế là trái đất bị tiêu diệt hoàn toàn, cũng có thể tận thế là mặt đất thay đổi như sóng thần, hỏa diệm sơn , bịnh dịch làm cho một số người chết và loài vật biến khỏi địa cầu trong khi một số khác vẫn tồn tại.

Các bậc tiên tri của Bửu Sơn Kỳ Hương cho rằng vũ trụ tiến triển trong vòng sinh trụ, hoại diệt.cũng như xuân hạ thu đông biến dịch. Sau thượng nguyên, là trung nguyên, sau trung nguyên là hạ nguyên. Sau hạ nguyên là thượng nguyên. Vũ trụ luân hồi theo bánh xe quay, nghĩa là theo vòng tròn chứ không phải theo chiều thẳng đứng như Marx quan niệm. Thế giới chuyển vần từ thịnh đến suy, từ bỉ đến thái, biển cả thành nương dâu, núi cao thành biển rộng. Chuyện đó xa vời nhưng cũng là trước mắt. Tang điền thương hải có hai nghĩaq. Nghĩa thứ nhất là những biến đổi về mặt địa lý, địa cầu. Nghĩa thứ hai là những biến chuyển của lịch sử. Nguyễn Du than thở:
Trăm năm một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng!
Trần Tế Xương thì sinh lòng hoài cảm:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.
Đêm đêm tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò!

Ông nêu lên những điều ông thấy rất gần, rất thật để cảnh báo dân chúng Việt Nam là tai họa sắp đến, phải tu Phật mà tránh tai họa:
Cải tà quy chính kẻo lầm quỷ ma.
(Kim cổ)

Ai ai nhẫn chí để dành
Hạ nguơn tận thế tu hành cần năng.
(Ngồi buồn)

Những lời tiên tri này như là những thỏi vàng, những viên kim cương nằm rải rác trong khối đất, tảng đá.

*

KIM CỔ KỲ QUAN 
có 9 bổn
*
MỤC LỤC



1- Kim Cổ
2- Giác Mê

3- Cáo Thị

4- Vân Tiên

5- Ngồi Buồn

6- Bốn Tuồng

7- Thừa Nhàn

8- Tiềng Giang

9- Kiếng Tiên


LỜI TỰA

audio1 texas

1.Lòng vọng cầu nội ngoại tương tề
Qui nhứt thống ra bề mới nổi
Trước mắt ngọc gẫm âu việc lỗi
Sau lưng nhìn nhiều nỗi Phật Tiên
5.Đêm năm canh thổn thức chẳng yên
Ngày sáu khắc sầu riêng mối đạo
Tưởng ái quốc cơ đồ sáng tạo
Nhìn lê dân cường bạo đa đoan
Chúa mỏi lòng chúa nghĩ thân an

10.Tôi mệt dạ còn mang nạn cả
Thời quân nhược quả kia báo quả
Thế thần cường giầy giã trung cang
Bắc lương thiền nghĩ tại không toan
Thời bất đạt đa mang tội thế

15.Ngày Bính Tý thương cha lập kế
Ơn cửu huyền tiền thế trung thu
Bảy ngày xuân ít kẻ công phu
Thập ngũ nhựt không tu hội phí
Trường an Phật ít người hội ý

20.Chốn bạo tàn hiếp (hiệp ) trí gia công
Mẹ thương con xà lộn với long
Con ghét mẹ nên không niệm Phật .
Sầu tâm nội nhơn đồng dữ vật
Xét ít người lòng Phật nhiều ma
Có vui chỉ một chốn Diêm la
Miền Tiên cảnh vào ra ít mặt
25.Rắn lộn Rồng nhơn dân sanh giặt (giặc )
Đề lao chốn (chống) cửa ngặt nỗi chi
Nhị niên xao xát ( xác) lời ghi để
Ngục rạt (rặc) chen người xiếc ( xiết) kể bao
Bấy lâu tiêu tứ công lao khổ
30.Biển Thánh rừng Nhu bổ báo ân
Rạng đến hai chữ quân thần đạo .

Ái quốc ưu quân bỏ bạo tàn
Quốc cương (vương?) thuỷ thổ đường danh vọng
Rèn chí tu tâm động Phật Trời
35.Khổ tăng gia khổ lời bất chánh
Đường lành thấy đó tranh (tránh) sao đành
Sầu nỗi muôn chim không nhành đậu
Buồn cho thế sự hậu bất gia
Con Phật có lòng, ma mà (nào) dắt
40.Con ma chẳng kể quỉ bắt ma .

Nhứt nhơn địch vạn cha ơn trợ
Ngô (Ngó ) Bắc xem Nam sợ Phật Trời
Ngọn rau tấc đất lời cẩn hạnh
Súng bắn rập bô chẳng mạnh chi
Dõng bất quá thiên đừng khi Phật
Cường vô quá lý vật tiêu tan
Của Thiên trả Địa mang tiến (tiếng) dữ
Tích đức minh minh chẳng chữ (giữ) lòng
Có chi hơn một kiểng non bồng
(50). Trung quân hiếu phụ vợ chồng ái ân


Nơi ánh sáng Sư tiền giáo đạo
Nhờ oai linh nội ngoại tổ tông
Tổ căn nguyên Tam giáo sư ông
Di truyền Đạo thiệt là Thích Đạo
(55).Hữu Thánh giáo coi sao lộn lạo
Đời kim tiền đa đạo đa sư
Nói nhơn hư đạo thiệt bất hư
Lầm tả (tà) đạo nhơn hư bất dụng
Kiêm (Kim ) Thích đạo kinh xưa chẳng tụng
(60). Việc âm thinh sắc tướng bất dùng
Đạo tại tâm tâm đạo xuất tùng
Tùng tâm đạo mới là Phật đạo .

Đa tà (tạ) quỉ ( quý) sư truyền khổ giáo
E hậu lai ác báo ác lai
(65).Người ở đời ai cũng hai tai
Nghe cho rõ đạo ai chánh giáo
Người lại nói Phật rằng nói láo
E cho người sau mất phần ăn
Khuyên người đừng nghi hoặc lăng xăng
(70). Sau người lại vô căn mà chết

Dầu thương ghét Phật Trời thương hết
Người nhứt tâm giữ nết ở ăn
Tai hoạ Trời xuống chốn lăng xăng
Nạn nước lửa nạn phần ôn dịch
(75). Nạn trái ban (trái) thương phần con nít
Nạn chìm ghe lão ấu bất tồn
Nạn hổ lang ác thú hết hồn
Nạn chết đói ó rằn mổ cắn
Nạn giặc giã chạy dường cóng cẳng
(80).Té ngã lăng chân thẳng chân dùn 

Phật ngày xưa dạy bảo người tùng
Nay mắc nạn rùng rùng phế bổ (bỏ)
Tu nhân đạo tậm thâm ai rõ
Tu gia trì tu nhỏ tu nhen
(85). Tu Quốc vương chơ Phật ngợi khen
Tu bồ thi (thí) làm quen với Thánh
Tu tành hạnh cầu an bá tánh
Tu đấp (đắp ) đường tịnh thuỷ ai (tai) ương


Tu biết thương vốn thiệt chay trường
(90). Tu tham của tu đường địa ngục
Tu cần kiệm gia đường phú túc
Tu ghét ghen tu chúc gông cùm
Tu hiếu nghĩa bao trùm Tiên Thánh
Tu làm vậy Phật trời lưỡng tánh
(95). Tu quỉ ma tránh chẳng khỏi tai

Tu thi ân mới đặng lâu dài
Tu phước đức mới là phương tiện
Tu nhẫn nhẫn khuyên đừng thưa kiện
Tu hưu hưu vạn sự thôi thôi
(100).Tu trong tâm đừng ở ngoài môi
Tu nhân nghĩa lễ nghi trí tín
Phật bài để Phật đâu cất kín
Nhơn bất tri bất giác bất thông
Nói cho nhiều những việc mênh mông
Trong trăm mối tích tông (tòng ) đạo cả
Đạo là lớn chẳng vay chẳng ngã
Trong năm châu chư quốc đều noi
Trước mắt người ít kể xét soi
Tu nhân đạo thiệt là chánh giáo
(110).Tiên, Thánh, Phật ba ngôi dựng tạo .


Tu xưng danh tu kiếm gạo tiền
Tu mạo chiều ( chiếu ) thế (phế) tiền phản Đạo
Trên Trời Phật không tờ chỉ giáo
Dưới chúng sanh tạo tác điểm danh
(115).Tạo cốt hình lục tỉnh bia danh
Phật đâu lại bất tri ngôn ngữ
Kỷ tri kỷ bất tri nhân bỉ
Tội bỉ tri tội kỷ bất tri
Ly ngục hình nhơn ngục nan ly
(120).Tri kỳ bỉ bất tri kỳ thử .

Văn ngôn chánh cước ( phước) lai hoạ khứ
Văn ngôn tán (tà) phước khứ hoạ lai
Ai nên hư phải quấy mặc ai
Tục đường (phương) nói tội ai lai (tai) nấy.
(125). Giác việc đời phải quấy có đôi
Phật với ma thì lại riêng ngôi
Phú với quí nghĩ thôi một cặp
Trung với nịnh nghĩ thôi hai cặp
Chánh với tà chẳng gặp, chẳng (gặp) hung .


(130).Hiếu với trung, trung hiếu chung cùng
Khôn với dại, dại khôn khôn dại
Nhơn lễ nghĩa trí tín hợp lại
Dữ với hung, hung dữ ở gần
Thần với Thánh, Thánh Thần cứ ( cứu ) độ
(135). Nói phải quấy cũng như giã ngộ
Nói ít lời lật đổ ( tật đố ) mặc ai

Cất bút châu phụng toả (tả) một bài
Di truyền để hậu lai tường khán
“Phật ông diễn thế gian di chúc,
(140).Tiền kỷ tái hậu vô giai”.

Từ Kỷ Dậu niên Phật Thầy truyền chí Du (vu) kim,
Nhâm ngũ niên cọng, kế cứu thập tứ niện (niên)
Nhâm ngũ niên hạ nguơn nhựt
Kỷ Dậu niên tái bản.Bá nhì thập niên hậu
( 1849-1969 )