TỔ ĐÌNH TAM BỬU TỰ Ba Chúc - An giang
♠♠๑۩۞۩๑ -KỲ HƯƠNG TỰ- ๑۩۞۩๑♠♠
Trang này được thực hiện bởi các đồng đạo TỨ ÂN HIẾU NGHĨA - TIỀN GIANG

4 tháng 10, 2010

ý nghĩa và nghi thức lễ khai mộ 

Đáp: Lễ khai mộ, nói nôm na là lễ mở cửa mả. Lễ này nguyên là của đạo Lão ở Trung Hoa du nhập vào nước ta không biết từ hồi nào. Về sau Phật giáo cũng vận dụng lễ này thành một nghi thức chính thức. Về nghi thức thì lễ này ở đâu cũng giống nhau, cử hành vào ngày thứ ba sau khi chôn cất. Thức cúng gồm năm thứ đậu (có nơi dùng cả mè), một cây thang làm bằng bẹ chuối hay cây sậy, ba ống đựng gạo, muối và nước, một cây mía lau chín lóng. Ba thứ dâu được đặt trước đầu mộ cùng với nhang đèn. Nhà sư đi đầu dẫn theo thân nhân người chết cầm cây mía lau có cột một con gà con đi ba vòng quanh ngôi mộ mới. Có nơi còn để rượu cho con gà uống khiến nó say rượu mặt mày khờ câm nên mới có câu: Lờ đờ như con gà mở cửa mả. Sau khi cúng xong người ta bỏ con gà lại tại mả, bưng khay rước vong về nhà thờ.

Tuy nhiên về ý nghĩa thì có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng chung quy không ngoài hai cách nghĩ sau đây:

Phần lớn người ta cho rằng sau khi chôn ba ngày, người thân phải làm lễ mở cửa mả để vong hồn người chết được siêu thăng nơi Tịnh độ. Cây thang nam bảy nấc, nữ chín nấc là để người chết leo ra khỏi huyệt mồ. Năm thứ đậu và gạo muối cùng nước dùng để hồn người chết ăn uống cho no dạ. Còn cây mía lau chín đốt là tượng trưng cho chín chữ cù lao, vì lau và lao đồng âm. Còn con gà con để tượng trưng các con nay côi cút như gà con lìa mẹ. Gà con còn được hiểu là gà linh khi bị đánh nó kêu lên làm vong hồn người chết đang mê muội chưa biết mình đã chết tỉnh ra.

Mặt khác, nhiều người cho rằng lễ mở cửa mả xuất phát từ sự tích sau đây: Quách Phác, người Văn Hỷ, tự Cảnh Thuần, danh sĩ đời Tấn, rất giỏi khoa bói toán và địa lý phong thủy. Phác chọn được một ngôi đất cực quý, ai chôn vào đấy thì con được làm vua vì đây là ngôi đất có con phụng đang ấp trứng dưới đất. Tuy nhiên người chết phải được quàn lại một trăm ngày mới đem chôn xuống ngôi đất đó vì lúc ấy phụng hoàng con mới nở. Dặn dò xong Phác uống thuốc độc tự tử. Vợ Phác quàn quan tài chồng được 99 ngày thì con Phác ở nước ngoài về kêu khóc bảo vì tin phú quý mà phải quàn quan tài cha như vậy là bất hiếu, vả cũng đã được chín ngày rồi còn gì. Nghe con nói cũng phải, vợ Phác cho đem quan tài đi chôn. Do chỉ thiếu có một ngày mà mọi việc hư hết, vì con phụng mái ấp chưa xong nên hoảng sợ bay mất lên trời. Phác tính cứu vớt bằng bước thứ hai, báo mộng cho vợ đem năm thứ đậu rải trên mồ để chữ con phượng mái xuống ăn, lại cột gà con vào gốc cây lau sậy để nhử con phụng tưởng con hoàng mà đáp xuống, còn gạo muối là để Phác nằm dưới mộ ăn dần nhằm tu luyện để mưu giành ngôi vua trên trời với Ngọc hoàng Thượng đế, cho nên mới có cây thang bảy nấc để Phác leo lên bảy từng trời.

Chúng tôi thấy cả hai truyền thuyết đều có những điểm không ổn. Bởi người chết có thể là cha mẹ, mà cũng có thể là vợ chồng, hoặc con cái nên bảo con gà con tượng trưng cho sự côi cút thì không đúng. Còn truyền thuyết Quách Phác có chỗ không ổn vì đây là con người có thật trong lịch sử Trung Hoa. Vì vào đời Tấn Minh đế, Vương Đôn muốn làm phản nên bảo Quách Phác bói thử. Quách Phác bói được quẻ rất xấu nên can ngăn Vương Đôn. Đôn giận cho chém Quách Phác.

Về nghi thức trong lễ khai mộ thì đều được nhà sư chủ tế đọc bằng âm Hán. Nhằm giúp độc giả nắm bắt đầy đủ nội dung nên chúng tôi xin ghi ra cả âm chữ Hán và âm chữ Nôm. Thật ra các chi tiết của khoa nghi tuy có chút khác biệt nhưng nội dung thì cũng tương tự nhau:

Nghi khai mộ thứ nhất:

Tang chủ tựu vị, phần hương, lễ tam bái, giai quỳ.

Hương hoa thỉnh, hương hoa đăng triệu thỉnh, nhứt tâm phụng thỉnh: Đương sơn bổn xứ Thổ địa, Chánh thần, Ngũ phương mộ trạch, lai đáo chứng tri, thọ thử cúng dường, thùy từ gia hộ.

Tuyên Duy nguyện:

Thượng trên Phật sắc, hạ mẫn phàm tình, khai mộ dẫn vong, án triệu ứng thỉnh.

Hương hoa thỉnh, hương hoa đăng triệu thỉnh, nhứt tâm phụng thỉnh: Thượng hạ truy hồn tam sứ giả, đông tây thủ mạng nhị thần quan, tiếp triệu phục vì vong tánh... nhứt vị thần hồn lai đáo mộ phần, thọ tài hưởng thực.

Duy nguyện

Tam đồ lộ viễn.

Tiếp triệu lai lâm

Thính pháp văn kinh

Siêu sinh lạc quốc

(Đọc danh hiệu Phật và Bồ tát)

Hiến trà. Lễ nhị bái. Giai quỳ.

Sái đậu:

Nhứt sái đậu hương linh siêu Tịnh độ

Nhị sái đậu hương linh vãng Tây phương

Tam sái đậu tang quyến đắc an ninh

Vãng sanh quyết định chơn ngôn:

Nam mô A Di Đa Bà Dạ...

Hiến trà. Lễ tứ bái. Nguyện sanh Tịnh độ trung, giai cộng thành Phật đạo. Nam mô tiêu tai giáng kiết tường Bồ tát Ma ha tát.

Tạm dịch:

Tang chủ tựu vị, đốt nhang, lạy ba lạy, đều quỳ xuống.

Hương hoa thỉnh, hương hoa đèn triệu thỉnh, một lòng phụng thỉnh Thổ địa, Chánh thần tại đương sơn, bổn xứ, Thần mộ trạch năm phương cùng đến đây chứng tri, thọ cúng dường này, thương xót mà gia hộ.

Duy nguyện

Trên tuân sắc chỉ của Phật, dưới thương phàm tình, mở cửa mả dẫn vong, y theo gọi mà ứng thỉnh.

Hương hoa thỉnh, hương hoa đèn triệu thỉnh, một lòng phụng thỉnh trên dưới ba sứ giả truy hồn, đông tây hai thần thủ mạng, tiếp triệu vong người mất... đến mộ phần, nhận tiền, hưởng thức ăn.

Duy nguyện

Ba nẽo đường xa

Tiếp triệu đến đây

Nghe pháp, nghe kinh

Siêu sanh phương Tây

Niệm tên của Phật và các Bồ tát.

Châm trà, lạy hai lạy, cùng quỳ

Sư rải đậu nói:

Thứ nhất rải đậu hương linh siêu Tịnh độ

Thứ nhì rải đậu hương linh về Tây phương

Thứ ba rải đậu tang quyến được an ninh.

Đọc Vãng sanh quyết định chơn ngôn: Nam mô A Di Đa Bà Dạ... (ba lần).

Rót trà, lạy bốn lạy, Nguyện sanh về Tây phương Tịnh độ, cùng thành Phật đạo. Nam mô tiêu tai ương, giáng điều lành Bồ tát Ma ha tát.

Nghi khai mộ thứ hai

Tang gia hiếu quyến phủ phục bi tình, hiếu chủ kiền thiền (thành) vọng nghinh lễ tam bái

Bình thân giai quỳ

Tán Dương Chi, tụng Đại bi chú

Nhứt tâm phụng thỉnh

Đông phương Thanh Đế Chúa Ngung Đại Thần

Tây phương Xích Đế Chúa Ngung Đại Thần

Nam phương Bạch Đế Chúa Ngung Đại Thần

Bắc phương Hắc Đế Chúa Ngung Đại Thần

Trung ương Huỳnh Đế Chúa Ngung Đại Thần

Cập thủ quan, ngũ quách, thủ nộ đẳng Thần tiếp độ vong linh siêu sanh Tịnh quốc.

Bạt nhứt thiết nghiệp chướng căn bản đắc sanh Tịnh độ đà ra ni: Tụng vãng sanh

Xướng: Nhứt đả thần kê, tri giác bất tri mê

Nhị đả thần kê, vong giả đắc siêu Tịnh độ

Tam giả đả thần kê, tang chủ đồng thọ phước

Tạm dịch:

Tang gia, hiếu quyến quỳ mọp đau buồn, hiếu chủ lòng thật thành kính vọng nghinh lạy ba lạy.

Đọc bài tán Dương Chi và tụng bài chú Đại Bi

Một lòng phụng thỉnh:

Đế Xanh Chúa Ngung Đại Thần ở hướng Đông

Đế Đỏ Chúa Ngung Đại Thần ở hướng Tây

Đế Trắng Chúa Ngung Đại Thần ở hướng Nam

Đế Đen Chúa Ngung Đại Thần ở hướng Bắc

Đế Vàng Chúa Ngung Đại Thần ở chính giữa.

Cùng với các Thần giữ quan, giữ quách và giữ phần mộ xin tiếp độ vong linh siêu sanh nước Phật. Tiêu trừ hết mọi thứ nghiệp chướng, căn bản được sanh Tịnh độ Đà ra ni tụng chú Vãng sanh.

Cột gà vào cây mía lau đi quanh mộ ba lần, sau đó bắt gà lên vỗ nhẹ vào con gà nói:

Một đánh gà thần, giác chớ chẳng mê

Đánh vào gà thần, người chết được siêu sanh Tịnh độ

Ba đánh gà thần, tang chủ cùng thọ phước.

Thả gà ra bỏ lại và cặm cây mía nơi mộ. Tang chủ bưng khay thỉnh vong đi theo sư, nói ba lần: “Tây phương tiếp độ vong hồn. Nam mô A Di Đà Phật”.

Về đến nhà bước vào cửa đọc ba lần: Nam mô A Di Đà Phật.

Để khay xuống bàn thờ vong, đọc: Nam mô Linh Tự Tại Bồ tát (ba lần).

Vong linh đã an vị, lễ xong lạy bốn lạy. Sau đó tang chủ sắp đặt cơm cúng vong. Bắt đầu tụng niệm theo nghi lễ an sàng.

C. Nghi khai mộ thứ ba (chép thẳng phần đã dịch)

Tang chủ tựu vì, lạy ba lạy.

Bình thân đều quỳ.

Đọc bài tán Dương Chi. Tụng chú Đại Bi.

Một lòng phụng thỉnh:

Thần Phù giữ mộ Giáp Ất Mộc ở phương Đông

Thần phù giữ mộ Bính Đinh Hỏa ở phương Nam

Thần phù giữ mộ Canh Tân Kim ở phương Tây

Thần phù giữ mộ Nhâm Quý Thủy ở phương Bắc

Thần phù giữ mộ Mậu Kỷ Thổ ở chính giữa.

Cùng với các Thần giữ quan, giữ quách và giữ mồ, tiếp dẫn phục vì vong chánh... hiển linh tánh... nhứt vị... hồn.

Duy nguyện linh hồn cùng phách đến đây để mà nhận tiền, hưởng thức ăn. Tụng:

Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ lồ chỉ đế,

Án tam bạt ra, tam bạt ra hồng (ba lần)

Nam mô tố rô bà dạ đá tha nga đa dạ, đát điệt tha

Án tô rô, tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha (ba lần)

Án nga nga nẳng, tam bà phạ phiệt nhựt ra hồng (ba lần)

Tụng ba biến Vãng sanh rồi dẫn gà đi ba vòng quanh mộ đọc

Gà vàng sớm tối thảy thường kêu

Năm đậu rải ra ấy khai mồ

Kẻ chết tùng cao đăng bờ bến

Mỹ hương, năm đế giữ tân mồ.

Tụng ba biến Thần chú Tiêu tai cát tường đoạn rải năm thứ đậu.

Nguyện tiêu ba chướng, trừ phiền não.

Lại nguyện:

Nhứt thành thượng đạt, muôn tội tiêu tan. Nguyện vong hồn lên thẳng cao siêu, tang quyến tăng thêm phước thọ.

Phổ nguyện: Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh cùng thành Phật đạo.

Nam mô A Di Đà Phật.

Trên đây là những nghi thức khai mộ căn bản, tuy nhiên do điều kiện, phong tục địa phương, bối cảnh văn hóa mà có sự gia giảm cho phù hợp. Ở đây, chúng tôi nêu ra mang tính tham khảo về các hình thái của một nghi lễ vừa mang tính dân tộc, dân gian và ẩn tàng những giá trị đặc thù của văn hóa Phật giáo.

1 nhận xét:

Nhận xét của bạn đang được chúng tôi duyệt qua, và chúng tôi sẽ đăng lên trong thời gian sớm nhất! Chào Thân ái!